Các giấc mộng báo về thiên mệnh thống nhất giang sơn của ông xuất hiện không chỉ một lần, như mộng báo cho sứ quân Trần Minh Công biết sự xuất hiện của nhân vật tài năng là Đinh Bộ Lĩnh, báo cho sứ quân Phạm Bạch Hổ biết nên quy thuận vua Đinh vì Đinh Bộ Lĩnh
đáp án đúng: A. Đinh Bộ Lĩnh được nhân dân tôn xưng là Vạn Thắng vương. Sau khi Ngô Xương Xí (Thái tử, thuộc đời thứ 8 họ Ngô Việt Nam, con trai Thiên Sách Vương Ngô Xương Ngập) chết, họ Ngô hết người kế vị. Trong nước một ngày không thể không có vua. Đinh Bộ Lĩnh
Trái ngược với cái tên truyện ngọt ngào là Sweet Home, bộ webtoon này lại kể về một câu chuyện kinh dị cùng vớu nhiều tình tiết gây ám ảnh cho người đọc. Nếu bạn đang tìm kiếm sự mới lạ, hãy thử ngay với bộ truyện tranh này nhé! Simple Thinking About Blood Type
Đinh Bộ Lĩnh tức Đinh Tiên Hoàng đế (924 – 979), quê ở làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng, ( nay thuộc Huyện Hoa Lư, NB ). Thân phụ là Đinh Công Trứ, 1 nha tướng của Dương Đình Nghệ, giữ chức Thứ sử Châu Hoan ( Nghệ An). Cha mất sớm, Đinh Bộ Lĩnh theo mẹ là Đàm Thị về
🕗 Tiểu sử Đinh Bộ Lĩnh Đinh Tiên Hoàng. Danh nhân anh hùng dân tộc việt nam.Đinh Tiên Hoàng (22 tháng 3 năm 924 tháng 10 năm 979), tên húy là Đinh Bộ Lĩnh, hoặc có sách gọi Đinh Hoàn , là vị hoàng đế sáng lập triều đại nhà Đinh, nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam.
. 5 cuốn sách hay về Đinh Bộ Lĩnh giúp bạn hiểu thêm về Đinh Bộ Lĩnh và tầm ảnh hưởng của ông đến lịch sử Việt Hai Sứ QuânCuối thời Bắc thuộc lần thứ ba, Ngô Quyền ở Đường Lâm hưng binh rửa hận cho nhạc phụ là Dương Diên Nghệ, giết phản tướng Kiều Công tiễn, thừa thắng nương vào sóng nước Bạch Đằng giang mà phá tan quân Nam Hán, mở ra cho nước ta thời đại tự chủ đầu tiên. Vận nước vừa mới sáng đã lại mờ, Ngô Vương ở ngôi chỉ được 6 năm, để lại đằng sau Vương cả một thời đại hỗn sau, Giao Châu thực sự đại loạn. Khắp nơi giặc cướp nổi lên, cường hào chiêu mộ binh lính mạnh ai người ấy chiếm giữ một vùng. Lớn và mạnh hơn cả có mười hai nhân vật xưng hùng, sử gọi là “mười hai sứ quân”. Loạn mười hai sứ kéo dài đến tận 23 năm mới cáo chung với những trận đại thắng của “Động chúa Hoa Lư là Đinh Bộ Lĩnh”.Đinh Bộ Lĩnh mất cha từ nhỏ, lang thang trong đám mục đồng, lấy rong chơi làm lẽ sống, tại sao lại có được cái chí “khuất phục chúng anh hùng trong thiên hạ”, tại sao lại có được hành vi tráng liệt “phất cờ dựng nước”, một tay mục đồng lại có thể có được cái kho hùng tài thao lược ở trong lòng để mà ra binh dàn trận, tung hoành như ở chỗ không người giữa Mười Hai Sứ có đủ binh tướng cầm cự với nhau lâu đến như vậy được. Một trí óc mục tử, tại sao lại có thể thực hiện được lần đầu tiên trong lịch sử nước ta một “quốc gia” thực sự với những triều nghi triều chính?Mười Hai Sứ Quân Trọn Bộ 2 Tập là tiểu thuyết lịch sử gồm hai tập với 119 hồi. Tác giả lấy văn nghệ thể hiện văn hóa, đem lịch sử dựng thành tiểu thuyết, đưa tích sử vào các sự việc tưởng tượng, bám vào căn bản lịch sử để cho tiểu thuyết không thành hoang đường mị hóa. Như thế thì cái “không có” vẫn chứa đựng “những cái có thật”.Đinh Tiên Hoàng – Vũ Xuân TửuCâu chuyện này xảy ra cách đây nghìn năm có lẻ…Tài liệu thành văn cũng như huyền thoại, giai thoại về Đinh Tiên Hoàng và triều vua Đinh, có rất nhiều; thật giả lẫn lộn, khó phân biệt rạch ròi. Nhưng tiểu thuyết lịch sử là văn học, hư cứu trên cơ sở chính sử, nên đấy là mảnh đất màu mỡ cho ngòi bút tung vật trung tâm số một là Đinh Tiên Hoàng, khi nhỏ tuổi, bản danh Đinh Hoàn, mãi đến khi kết nghĩa với sứ quân Trần Lãm, mới được phong chức Bộ lĩnh. Từ đó mang tên Đinh Bộ lĩnh, nổi danh ngàn dẹp “loạn mười hai sứ quân”, xưng Vạn Thắng Vương, đến khi thống nhất đất nước mới được tôn là Đại Thắng Minh Hoàng đế…Sau khi băng hà, thường được gọi là Đinh Tiên Hoàng đế, không có tên thụy Đinh Tiên Hoàng là một nhân vật lịch sử, tầm cỡ vượt trên thời đại, mà khả năng của tác giả có hạn, nên không tránh khỏi sơ suất, dám mong bạn đọc chỉ nghĩ, đây là cuốn tiểu thuyết văn học, viết về thân phận nhân vật Đinh Tiên Hoàng, nhưng thông qua bức tranh lịch sử xa xưa, để cố gắng nói điều gì đó với thời nay thì may mắn lắm Truyện Tranh Lịch Sử Việt Nam – Khát Vọng Non Sông Đinh Bộ Lĩnh Và Thế Trận Cờ LauBộ sách “Truyện tranh lịch sử Việt Nam – Khát vọng non sông” gồm hàng trăm tập, giới thiệu ngắn gọn, sinh động những truyền thuyết đầy tính nhân văn và những sự kiện, những nhân vật nổi tiếng trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Bộ Lĩnh và thế trận cờ lau – Ngay từ nhỏ, Đinh Bộ Lĩnh đã thể hiện người có tư chất phi thường của bậc đế vương, thông minh và mang trong mình hoài bão lớn. Thời kỳ Hậu Ngô Vương, phương Nam, phương Bắc rối ren, ông thay Trần Minh Công giữ đất Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, thủ hiểm một nơi, từng bước dưỡng binh hùng tướng mạnh chờ thời cơ nhằm thu phục các sứ quân, thống nhất đất Truyện Lịch Sử Việt Nam – Đinh Bộ LĩnhĐể bước đầu làm quen với lịch sử, cung cấp cho các em một lượng kiến thức cơ bản, đặc biệt là gieo vào các em niềm ham thích tìm tòi, tủ sách Tranh Truyện Lịch Sử Việt Nam chọn cách viết về lịch sử thông qua các câu chuyện về các danh nhân, thể hiện qua những trang sách tranh nhân vật trong bộ truyện tranh lịch sử xuất hiện là một câu chuyện giàu tính văn học, mang hơi hướng dân gian nhẹ nhàng và gần gũi. Lời thoại trong truyện cũng rất đơn giản, không đặt nặng về tư liệu nhưng vẫn luôn tôn trọng tính xác thực của lịch sử, góp phần bồi đắp tình yêu của thiếu nhi với lịch sử, với dân Bộ LĩnhVào lúc Ngô Quyền đánh thắng giòn giã quân Nam Hán trên dòng Bạch Đằng lịch sử năm 938, Đinh Bộ Lĩnh vẫn là cậu bé chăn trâu mải trò cờ lau tập trận. Gần nửa thế kỉ sau, cậu bé ấy đã trở thành một dũng tướng tài ba, dẹp loạn mười hai sứ quân và đường hoàng bước lên ngôi báu. Ông đã kế nghiệp xứng đáng sự nghiệp giữ vững nền độc lập mà Ngô Vương Quyền và bao thế hệ người Việt đã đổ máu xương mới giành lại Tranh Lịch Sử – Đinh Bộ Lĩnh Và Nước Đại Cồ ViệtTrên tay các em là những cuốn truyện tranh lịch sử, kết quả từ cuộc thi Biên soạn Truyện tranh lịch sử theo sách giáo khoa Lịch sử hiện hành do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam phối hợp với Hội Nhà văn Việt Nam và Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ truyện tranh này tái hiện lịch sử dân tộc từ thời dựng nước cho đến cuối thế kỷ XX. Những sự kiện, địa danh và nhân vật tiêu biểu qua các thời ký lịch sử được minh họa bằng nhũng hình ảnh sinh động, hấp từng câu chuyện, các em sẽ hiểu biết thêm về quá khứ dựng nước và giũ nước của dân tộc trong suốt hàng ngàn năm. Thấm nhuần những giá trị lịch sử do cha ông dày công hun đúc, các em sẽ thấu hiểu những nét văn hóa, phẩm chất và vẻ đẹp của con người Việt Nam. Hơn thế nửa, lòng tự hào về truyền thống quê hương cùng sự tri ân các anh hùng dân tộc chính là hành trang hữu ích giúp các em tiến bước vững vàng trên con đường hội nhập mai vọng những cuốn truyện tranh lịch sử này sẽ bổ ích và để lại ấn tượng tốt đẹp cho các em.
Cho đến tận ngày nay, thân thế và cái chết của Đinh Tiên Hoàng, người khai sinh ra một nước Nam độc lập sau nghìn năm Bắc thuộc, vẫn là một điều gây nhiều tranh cãi. Các sử sách để lại đều có những lý giải không thể đơn giản hơn về nguồn gốc và cái chết của Đinh Tiên Hoàng. Đến mức nhiều người không thể tin được một vị Vua văn võ toàn tài, hội đủ mọi phẩm chất Trung, Hiếu, Dũng, Chí, Tín lại được ghi nhận sơ sài đến thế. Các tài liệu lịch sử, kể cả lịch sử Việt Nam và sử Tàu, nói về nguồn gốc của Đinh Bộ Lĩnh có đôi nét khác nhau, cộng thêm với hàng loạt truyền thuyết, những câu chuyện dân gian lưu truyền, kể cả những truyền thuyết hoang đường, làm cho việc xác định nguồn gốc nhân vật gặp không ít khó khăn. Truyền thuyết hoang đường về sự ra đời của một danh nhân lịch sử dân tộc. Trong cuốn "Ngọn cờ lau lịch sử", tác giả Nguyễn Như viết năm 1981 kể rằng, Công Trứ và Đàm Thị sánh duyên đã trên dưới chục năm mà chưa có con. Là người học rộng, tài cao, có tư chất nên Công Trứ được trọng dụng giao chức Thứ sử, cai quản vùng châu Hoan. Sau 6 năm nhậm chức, người vợ Đàm Thị ở quê nhà mới có điều kiện để vào thăm chồng. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi, nào ngờ tai họa lại giáng xuống giữa đêm đó, Sao Băng hung tinh trên trời sa xuống dinh quan Thứ sử. Hào quang của ngôi sao mạnh và tỏa rộng, cùng với nắng nóng ban ngày đã làm khô mọi vật nên đã xảy ra hỏa hoạn cực lớn, làm cho tất cả kho tàng, trại lính và dinh thự của quan Thứ sử đều bị thiêu rụi. Cũng từ ngày đó, quan thứ sử Công Trứ bỗng dưng liền ốm liệt giường, cấm khẩu. Đàm Thị cùng gia nhân và những người tâm phúc lo lắng cho rằng "Đằng nào thì Công Trứ cũng không sống được nữa, bởi không chết vì triều đình trách tội thì cũng chết vì căn bệnh này" nên mọi người liền đưa Công Trứ trở lại cố hương. Về Đại Hữu được một thời gian thì Công Trứ khuất núi theo hầu tiên tổ, cũng là lúc Đàm Thị phát hiện mình đã có thai. Một thời gian sau quan quân triều đình về, truy xét Công Trứ vì tội làm cháy nhà cửa, kho tàng và dinh thự ở Hoan châu nên tuyên phạt "lưu đày biệt tích và tịch thu toàn bộ gia tư, điền thổ. Nhưng Công Trứ không còn, quan triều đình lại hỏi đến con của Công Trứ và phán rằng" Sau này nếu sinh con trai, khi đứa con đó đủ mười tám tuổi sẽ phải chịu tội thay cha ". Vợ chồng Đinh Thúc Dự là em ruột của Đinh Công Trứ lo lắng, bàn bạc quyết bảo vệ cháu nên đã bịa ra câu chuyện rằng Đàm Thị đã bị con rái cá thành tinh hiếp. Nếu có sinh ra con trai thì cũng là" tạp chủng "chứ không phải là con của Công Trứ. Đó cũng chính là cái cớ để Đàm Thị sang nương nhờ bên ngoại là Đàm Gia Trang. Đủ chín tháng mười ngày, đêm rằm tháng ba năm 924, Bộ Lĩnh đã cất tiếng khóc chào đời. Lại có thuyết khác về chuyện con ngựa đá kể rằng Ngày xưa, ở làng Đàm Gia, châu Đại Hoàng, có một người tên Đinh Công Trứ, làm nhà tướng cho vị đầu mục Dương Diên Nghệ, sau trở nên thứ sử đất Hoan Châu. Về già, ông Trứ lui về quê cùng người vợ trẻ là Đàm Thị. Một hôm Đàm Thị đi tắm một mình trong đầm nước gần nhà, để quần áo ở bụi cây trên bờ, toan bước xuống nước bỗng thấy một con rái cá to lớn hiện lên tiến về phía mình. Đàm Thị sợ hãi ngất đi, đến lúc tỉnh dậy thì thấy mình nằm ở trên cỏ, bên cạnh có con rái cá ủ ấp liếm tay bà. Bàng hoàng đứng lên, bà vội mặc quần áo lại về nhà, dấu chồng việc lạ thường đã xảy ra. Cách đó ít lâu, Đàm Thị có thai, ngờ rằng con rái cá kia là Thần Nước hiện ra đi lại với bà. Đến ngày, bà sinh được một đứa con trai khỏe mạnh, khôi ngô khác thường. Vài năm sau, ông Trứ chết đi, cũng không hề biết rằng đứa con kia không phải là dòng máu của ông. Về sau, dân làng đánh bẫy bắt được con rái cá ở suối, giết ăn thịt rồi vứt xương đi. Đàm Thị nhặt xương con rái cá đem về gói lại treo ở bếp. Đứa con trai lớn lên, tỏ ra sức khỏe, thông minh hơn người, giỏi về bơi lặn, có thể ở lâu dưới nước hàng giờ. Đàm Thị đặt tên con là Đinh Bộ Lĩnh. Một ngày nọ có thày địa lý sứ Tàu tìm đến, ông ta đang có ý định tìm long mạch trong vùng đất này để táng cốt cha đem theo, khi tới gần vực song thì nhận thấy có vầng ánh sáng hào quang chiếu đỏ hướng thẳng lên sao Thiên Mã. Thày địa lý không biết lặn nên mới thuê người lặn mò xuống đáy nước xem xét tình hình. Lão thày địa lý này vô cùng dảo hoạt, liền thuê ngay đám trẻ mục đồng nơi sứ a nam. Đinh Bộ Lĩnh nhận lời lặn xuống dưới chỗ vực sâu nước chảy mạnh, thấy một con ngựa đá đang trừng mắt há miệng nhìn mình, cậu hoảng sợ trở lên nói cho thày Tàu hay. Thày Tàu liền bảo Đinh Bộ Lĩnh lấy một nắm cỏ đem xuống nhử vào mồm ngựa đá, thì ngựa há miệng ra nuốt lấy. Khi nghe Đinh Bộ Lĩnh lên kể lại rằng ngựa đã đớp lấy cỏ, thày địa lý không dấu được nỗi vui mừng, kêu lên " Đúng long mạch rồi! Ai mà tang được tro cốt ông cha vào đấy thì sẽ được phát đế vương ". Quả trời không phụ long ta! Rồi lão ngửa cổ lên trời cười rộ. Lập tức quay qua Đinh Bộ Lĩnh rồi trao lại một gói xương bọc trong cỏ, bảo mang xuống cho vào miệng ngựa đá. Đinh Bộ Lĩnh cầm lấy lặn xuống nước, nhét gói xương dưới một khe đá gần đó rồi trở lên bảo với thày Tàu rằng đã đưa cho ngựa đá nuốt rồi. Thày địa lý Tàu tưởng thật mừng rỡ lắm liền thưởng tiền cho Đinh Bộ Lĩnh và hứa hẹn sau này lên làm vua sẽ ban cho nhiều vàng bạc hơn nữa. Đinh Bộ Lĩnh chạy về nhà thuật lại việc này cùng mẹ rồi hỏi cốt cha ở đâu. Đàm Thị lúc bấy giờ mới nói thật cho con hay rằng Đinh Công Trứ chỉ là cha nuôi, và trao gói xương rái cá cho Đinh Bộ Lĩnh. Lĩnh lấy cỏ bọc mớ xương rồi lặn xuống vực đưa cho ngựa đá nuốt đi. Từ đó Đinh Bộ Lĩnh sinh ra can đảm khác thường, các trẻ chăn trâu bò đều nể sợ, bầu lên làm tướng. Lĩnh bày trận giả, sai lũ trẻ bẻ hoa lau làm cờ, chặt tre làm khí giới, rồi mấy đứa làm kiệu cho Lĩnh ngồi đi đánh nhau với trẻ làng khác. Một hôm, Lĩnh hội các trẻ ở ngoài đồng, bắt con trâu của chú sai đi chăn bổ làm thịt để mở tiệc khao quân. Ông chú ở nhà nghe tin vác gậy đi tìm, đến nơi chỉ thấy một chiếc đuôi chôn chặt ở đất, hỏi trâu thì Lĩnh nói trâu đã chui mất xuống đất rồi. Người chú tức giận đuổi đánh, Lĩnh chạy đến khúc suối, bí đường nhảy xuống nước, bỗng có con rồng vàng hiện ra cõng Lĩnh qua sông. Về sau Đinh Bộ Lĩnh dấy lên ở Hoa Lư, dẹp loạn các sứ quân, đánh đâu thắng đó, tự xưng là Vạn Thắng Vương. Lời tiên đoán của thày địa lý Tàu thực hiện Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi làm vua, gọi là Tiên Hoàng, niên hiệu Đại Cồ Việt. Tục truyền rằng thày địa lý Tàu trở sang đến nơi thì đã thấy Đinh Tiên Hoàng dựng xong cơ nghiệp, biết họ Đinh được đất ấy rồi, bèn lập mưu để phản lại, mới xin vào triều, yết kiến " Tâu bệ hạ, ngài được ngôi đại địa, cũng bởi phúc mà trời cho, nhưng có ngựa thì phải có gươm mới tung hoành lâu dài được, vậy ngài nên cho để một thanh gươm trên cổ ngựa mới hay". Rồi dâng lên vua một thanh gươm trần hai lưỡi rất sắc. Đinh Tiên Hoàng tưởng thật mới sai lấy thanh gươm buộc trên cổ ngựa, không ngờ lưỡi gươm theo sức nước cuốn dần dần cắm sâu vào cắt lìa cổ. Ngựa đứt đầu lôi cuốn theo sự sụp đổ của Đinh Tiên Hoàng, chấm dứt triều đại ngắn ngủi của nhà Đinh. Sự thật than thế vua Đinh. Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng, con Đinh Công Trứ, một nha tướng của Dương Đình nghệ giữ chức Thứ sử Châu Hoan. Đinh Công Trứ mất sớm, Bộ Lĩnh theo mẹ về quê ở, thường đi chơi với kẻ chăn trâu, bắt chúng khoanh tay làm kiệu để ngồi cho chúng rước và lấy bông lau làm cờ bày trận đánh nhau. Lớn lên, nhờ thông minh, có khí phách lại có tài thao lược nên khi Bộ Lĩnh dựng cờ dấy nghĩa mong lập nghiệp lớn, dân làng theo ông rất đông. Nhưng vì bất hòa với chú, Bộ Lĩnh cùng với con là Đinh Liễn sang ở với sứ quân Trần Minh Công ở Bồ Hải Khẩu Kiến Xương, Thái Bình. Thấy Bộ Lĩnh là người khôi ngô, có chí khí, Minh Công trao cho Bộ Lĩnh giữ binh quyền. Khi Trần Minh Công qua đời, Bộ Lĩnh đem quân về giữ Hoa Lư, chiêu mộ hào kiệt, hùng cứ một phương. Năm Tân Hợi 951 đời hậu Ngô vương, Nam Tấn vương cùng Thiên Sách vương đem quân đến đánh nhưng cả hai đều đại bại phải rút quân về. Đến khi nhà Ngô mất, Đinh Bộ Lĩnh dụ hàng được Đỗ Động của Nguyễn Cảnh Thạc. Từ đó, Đinh Bộ Lĩnh đánh đâu được đấy, được tôn là Vạn Thắng vương. Chỉ trong một năm, Đinh Bộ Lĩnh đã bình được các sứ quân, lập thành nghiệp đế. Năm Mậu Thìn 968 Vạn Thắng vương lên ngôi Hoàng đế lấy hiệu là Tiên Hoàng đế, đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng xây cung điện, chế triều nghi, định phẩm hàm quan văn, quan võ, phong cho Nguyễn Bặc là Đinh Quốc công, Lê Hoàn làm Thập Đạo tướng quân Tổng chỉ huy quân đội và phong cho con là Đinh Liễn là Nam Việt vương. Về ngoại giao, để tránh cuộc đụng độ với nhà Tống năm Nhâm Thân 972, Đinh Tiên Hoàng sai con là Đinh Liễn mang đồ vật sang cống. Vua nhà Tống sai sứ sang phong cho Tiên Hoàng làm Giao Chỉ quận vương và phong cho Nam Việt vương Đinh Liễn làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ An Nam đô hộ. Từ đó nước ta giữ lệ sang triều cống phương Bắc. Đinh Tiên Hoàng đã dẹp xong loạn sứ quân. Nhưng nhìn chung nhiều nơi vẫn chưa tuân theo luật lệ của triều đình. Bởi vậy để răn đe kẻ phản loạn, Đinh Tiên Hoàng đặt vạc đầu ở trước điện, nuôi hổ báo ở trong vườn, tuyên cáo rằng ai phạm tội thì bỏ vạc dầu hoặc cho hổ báo ăn thịt. Dù chưa phải dùng hình phạt ấy nhưng mọi người sợ oai, phép nước được tuân thủ. Nhưng rồi Đinh Tiên Hoàng phạm sai lầm bỏ trưởng lập ấu, cho con út là Hạng Lang làm Thái tử. Con trưởng là Nam Việt vương Đinh Liễn đã theo Tiên Hoàng đi trận mạc từ thuở hàn vi, không được kế vị, tức giận, sai người giết Hạng Lang đi. Họa loạn gây nên ngay trong hoàng tộc. Năm Kỷ Mão 979 Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt vương Đinh Liễn bị tên Đỗ Thích giết chết. Đỗ Thích trước làm lại, đêm nằm mơ thấy sao rơi vào mồm, tưởng là điềm báo được làm Vua bèn định bụng sát hại minh chủ. Một hôm Đỗ Thích thấy vua Đinh say rượu nằm trong cung bè lẻn vào sát hại rồi tìm giết nốt con cả là Đinh Liễn. Triều thần tìm bắt được Đỗ Thích đem xử tội và tôn Vệ vương Đinh Toàn lên làm vua. Đinh Tiên Hoàng làm vua được 12 năm, thọ 56 tuổi.* * *HẾT* * * CẢM ƠN CÁC BẠN ĐÃ LUÔN THEO DÕI BÀI VIẾT TỪ THẠCH KIM THỬ thạch kim thử đinh bộ lĩnh đinh tiên hoàng
Đinh bộ lĩnh là người động hoa lư Gia Viễn-Ninh Bình_, con trai của Đinh Công nhỏ, ông sống với mẹ ở quê thường cùng lũ trẻ trong vùng chăn trâu, chơi trò tập trận , khiêng kiệu, lấy bông lau làm này, giữa lúc nhà ngô suy yếu, Đinh Bộ Lĩnh đã cùng với những người thân thiết tổ chức lực lượng, rèn vũ khí , xây dựng căn cứ o Hoa nhà Ngô xụp đổ, cả nước rối loạn ,Đinh Bộ LINh đem quân đi đánh dẹp các xứ quânTick mình nha
Để tìm ra sự thật về cái chết của Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn, các nhà nghiên cứu phải cố công tìm kiếm các nguồn tư liệu càng gần với thời điểm xảy ra sự kiện càng tốt. Nguồn tư liệu lịch sử Đại Việt về chủ đề này dừng lại ở thế kỷ 14 với bộ Đại Việt sử lược. Sách này rõ ràng đã đứng về phía Lê Hoàn, nói rằng Đinh Điền và Nguyễn Bặc đã e ngại Lê Hoàn “gây bất lợi cho đứa con thơ”. Đó cũng chính là lời cáo buộc dối trá mà Quản Thúc, Sái Thúc và Hoắc Thúc đã dùng để tấn công Chu công Đán. Đi xa hơn nữa, ta chỉ còn những tư liệu do nhà Tống để lại. Điều đáng ngạc nhiên là bức tranh lịch sử triều Đinh trong sử liệu nhà Tống lại có nhiều điểm khác biệt đến không ngờ. Lịch sử sáng lập triều Đinh dưới góc nhìn của sử gia thời Tống Triều đại nhà Đinh tương đương với thời kỳ hai vua đầu tiên của nhà Bắc Tống. Trung Quốc lại là quốc gia có bề dày kinh nghiệm trong việc lưu trữ tư liệu và biên soạn lịch sử. Âu Dương Tu 1007 - 1072 là một trong các sử gia sớm nhất đã chép lại các thông tin lịch sử về dòng họ Đinh cầm quyền ở nước ta - mà bấy giờ họ gọi là Tĩnh Hải quân - trong Tân ngũ đại sử và Kê cổ lục. Một sử liệu quan trọng khác là Tục tư trị thông giám trường biên được Lý Đảo 1115 - 1184 biên soạn vào đầu thời Nam Tống tương đương với thời nhà Lý. Các thông tin lịch sử ghi chép trong những bộ sử này cho ta biết rằng Đinh Bộ Lĩnh là con của Thứ sử Hoan Châu Đinh Công Trứ - nha tướng của Dương Đình Nghệ. Sau khi Đinh Công Trứ chết, Đinh Bộ Lĩnh nối nghiệp. Năm 963, Ngô Xương Văn chết. Mười hai châu trong nước đại loạn. Đinh Bộ Lĩnh cùng con trai là Đinh Liễn đã đem quân dẹp loạn. Dân chúng cảm ơn đức, nên suy tôn Đinh Bộ Lĩnh làm Giao Châu súy, hiệu là Đại Thắng vương, cho Đinh Liễn làm Tiết độ sứ. Năm 965, Nam Hán đã phong cho Đinh Liễn làm Giao Châu tiết độ theo sử Việt, năm này loạn sứ quân mới vừa bắt đầu. Đinh Bộ Lĩnh xưng vương 3 năm thì nhường ngôi cho con là Đinh Liễn. Đinh Liễn lên ngôi vua được 7 năm thì nghe tin nhà Tống đã tiêu diệt Nam Hán, nên sai sứ sang thần phục nhà Tống. Tống Thái Tông phong cho Đinh Liễn làm Kiểm hiệu Thái sư sung Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ, An Nam đô hộ. Theo quan điểm của nhà Tống, triều đại nhà Đinh từ năm 965 đến năm 980 gồm có 3 “vua” Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn và Đinh Toàn. Nhưng Việt sử chỉ thừa nhận nhà Đinh có 2 vua, không bao gồm Đinh Liễn. Đinh Liễn cùng lắm chỉ là “vua” khi nước ta cần giao thiệp với Trung Quốc, như lời Ngô Sĩ Liên nói “từ đấy về sau có sai sứ sang nhà Tống thì lấy Liễn làm chủ”. Tản Đà cho rằng đó là một thủ thuật ngoại giao. Nguyên nhân là vì “vua Đinh dẫu nhận phong ở Tầu mà trong bụng thật không yên chịu”. Vấn đề nằm ở chỗ cách làm này rõ ràng đã bồi đắp vị thế chính trị cho Đinh Liễn. Nhưng thực tế Đinh Bộ Lĩnh không có ý định truyền ngôi cho Đinh Liễn. Điều này dẫn đến những mâu thuẫn trong nội bộ triều Đinh đã tạo điều kiện cho vụ Đỗ Thích thí Đinh Đinh nổ ra. Dấu ấn Đinh Liễn và vụ án Hạng Lang Trong quá trình dẹp loạn sứ quân, dựng lên triều Đinh, cũng như trong việc bang giao với Nam Hán và nhà Tống, vai trò của Đinh Liễn hiện lên hết sức rõ nét. Tuy nhiên, ngay từ buổi ban đầu của sự nghiệp, chúng ta đã sớm được thấy Đinh Bộ Lĩnh tỏ thái độ lạnh lùng tàn nhẫn với sự sống chết của Đinh Liễn. Đinh Bộ Lĩnh cho Đinh Liễn đi làm con tin cho nhà Ngô. Năm 951, Thiên Sách vương và Nam Tấn vương nhà Ngô đi đánh Hoa Lư, đã cho treo Đinh Liễn lên cây sào để uy hiếp Đinh Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh không nao núng, còn sai hơn 10 tay nỏ nhằm bắn vào Đinh Liễn. Hai vương kinh ngạc trước sự tàn nhẫn đó nên đã bãi binh. Sau khi triều Ngô rơi vào hỗn loạn, Đinh Liễn từ Hoa Lư trốn về và đã đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình dẹp loạn sứ quân. Sử sách Trung Hoa đã ghi nhận rằng Đinh Liễn là người đã chỉ huy đội quân đánh vào kinh đô nhà Ngô và dẹp tan các thế lực sứ quân quan trọng nhất. Các sự kiện chính trị hiếm hoi của triều Đinh được sử gia người Việt chép lại cũng cho thấy rằng phân bố quyền lực sau khi triều Đinh thành lập nghiêng hẳn về phe Đinh Liễn. Lê Hoàn - người “theo giúp Nam Việt vương Liễn” - được phong làm Thập đạo tướng quân, chỉ huy binh mã trong cả nước. Bản thân Đinh Liễn được giới thiệu với bên ngoài là “vua” của Giao Châu. Ưu thế chính trị này còn được thể hiện bằng hàng trăm cột kinh do Đinh Liễn dựng ở Hoa Lư với lời văn huênh hoang về việc tranh quyền và giết người em trai là Đại Đức Đính Noa Tăng Noa. Đó hẳn là Đinh Hạng Lang - người được Đinh Bộ Lĩnh chọn làm thái tử kế ngôi và bị giết đầu năm 979. Đinh Liễn vượt qua ranh giới cường thần chính thức trở thành phản thần. Trong bối cảnh chính trị như thế, Đinh Bộ Lĩnh và Đinh Liễn cùng lúc bị giết trong một sự kiện được kể lại hết sức mù mờ. Phải chăng Đỗ Thích và Lê Hoàn đã lợi dụng mâu thuẫn đó để mưu đồ làm vua? Hay phải chăng các đại thần Nguyễn Bặc, Lê Hoàn vì chính nghĩa đã liên minh nhau lại trong một cuộc binh biến mà cả hai Đinh đều chết? Đó là những câu hỏi chưa có lời giải đáp rốt ráo. Trích từ sách Mật bổn - những bí ẩn lịch sử Việt Nam cổ trung đại, do NXB Tổng hợp ấn hành
Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân thống nhất đất nước và lên ngôi hoàng đế vào năm 968, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, chọn Hoa Lư Ninh Bình là đất đóng đô. “Bé thì chăn nghé, chăn trâu Trận bày đã lấy bông lau làm cờ. Lớn lên xây dựng cơ đồ Mười hai sứ tướng bây giờ đều thua…” Cậu bé cờ lau Đinh Bộ Lĩnh Từ cánh đồng ngoài xa, có tiếng kêu của ai đó dội về vách đá, vọng vào căn nhà gỗ ven núi – Thằng Bộ Lĩnh đánh chết người! Bà Đảm ngừng tay đưa thoi, lắng nghe. Bà biết rõ con bà lắm. Thằng Bộ Lĩnh đã nhiều lần làm khổ bà vì cái tính nghịch ngợm và bướng bỉnh của nó. Còn giết người thì từ khi sinh ra, Bộ Lĩnh không ở với bố là Đinh Công Trứ đang làm thứ sử ở Hoan Châu [1] mà ở Hoa Lư với bà đã mười bốn năm nay, bà chẳng biết nó hay sao? Con bà không làm chuyện ấy. Lại có tiếng gọi – Bà Đảm ra mà đền con cho người ta kìa! Nó đánh nhau với con cái nhà ai rồi! Nghĩ vậy, bà Đảm đứng dậy, với tay cầm chiếc roi trên vách. Vừa ra đến đầu động [2] bà đã thấy lũ trẻ chăn trâu kéo nhau về. Một tốp cưỡi trâu đi trước, đứa nào đứa nấy kết lá làm bành, ngồi ngất nghểu trên lưng trâu. Tiếp theo, một tốp khác vác cờ lau đi như rước hội. Bộ Lĩnh đang chễm chệ ngồi trên tay hai đứa trẻ khoanh làm kiệu rước đi giữa, hai bên có mấy đứa cầm cờ lau kiếm gỗ hộ vệ. Bà Đảm bực mình, đi thẳng lại chỗ Bộ Lĩnh. Cây roi trong tay bà vừa vung lên thì Bộ Lĩnh đã tụt vội xuống đất, luồn qua tay bà, rồi chạy lên phía trước. Bộ Lĩnh nhảy tót lên lưng trâu, thúc trâu tế về phía núi. Thì ra lũ trẻ chăn trâu động Hoa Lư cờ lau tập trận. Đánh nhau với một lũ trẻ khác, bị cướp mất trâu, Bộ Lĩnh tức giận đuổi bắt thằng bé đầu đàn, quẳng xuống sông. Khi thằng bé sắp chìm, Bộ Lĩnh lại nhảy xuống vớt lên… Bà Đàm vừa giận con lại vừa lo lắng đến việc dạy con. Lại một hôm, trong lúc cờ lau tập trận, đoàn trẻ chăn trâu Hoa Lư được tin lũ trẻ sách bên đang đi về phía chúng. Lập tức Bộ Lĩnh cho dàn trận, còn mình thì leo lên một mỏm đá đứng chỉ huy, tay cầm bông lau làm cờ hiệu, thanh kiếm gỗ đeo bên sườn. Một trận chiến đấu ác liệt sẽ xảy ra. Không phải thế. Chúng đến để xin nhập bọn. Muốn nhập bọn với Bộ Lĩnh nhưng lại không chịu nhận Bộ Lĩnh làm chủ tướng, nhao nhao đòi tài vật xem ai khỏe hơn ai mới được làm chủ tướng. Tuy nhỉ bé hơn thằng đầu đàn của lũ trẻ con sách bên, nhưng Bộ Lĩnh không do dự, nhận lời đọ sức. Hai đứa cởi áo xông vào vật nhau. Bộ Lĩnh dùng tài nhanh nhẹn của mình làm cho thằng kia ngã sấp xuống rồi chồm lên lưng hắn ngồi như cưỡi trâu. Thằng kia cố sức vùng dậy. Bộ Lĩnh thúc chân vào sườn hắn mà thét – Mau lên! Cõng chủ tướng về hang núi khao quân! Lũ trẻ reo cười nhìn thằng lớn cõng thằng bé. Có tiếng xì xào “Thằng Bộ Lĩnh khôn quá, đáng mặt làm chủ tướng”. Thế là đoàn quân trẻ nhỏ lũ lượt diễu binh. Bộ Lĩnh ngồi trên kiệu đi giữa, có tả hữu hộ vệ. Rừng cờ lau di động men theo sườn núi, tiến về hang đá. Đến nơi, Bộ Lĩnh để lũ trẻ đứng đợi, còn mình thì dẫn mười đứa về nhà. Nhà Bộ Lĩnh ở cạnh đền Sơn Thần, cách động núi chừng nửa dặm. Hôm đó bà Đàm đi vắng, chỉ còn mấy gia đồng ở nhà. Con lợn hai người khiêng đang ở trong chuồng và mấy thùng gạo nếp được lũ trẻ mang đi theo lệnh của Bộ Lĩnh. Trong hang núi, tiếng lợn kêu van, khói bốc nghi ngút. Mùi thịt nướng ngầy ngậy, mùi xôi nếp thơm thơm bốc lên quyến rũ. Lũ trẻ háu đói quây quần bên bếp lửa reo hò… Tuổi niên thiếu của Bộ Lĩnh trôi qua với những ngày sôi nổi tập trận khao quân rồi lại tập trận khao quân. Cứ như thế, Bộ Lĩnh cùng lũ trẻ chăn trâu gắn bó với nhau như cá với nước. Bà Đàm lo lắng vì Bộ Lĩnh quá nghịch ngợm nhưng bà cũng mừng thầm có đứa con hơn người. Các cụ bô lão truyền cho nhau “Đứa bé này khí độ như thế tất sẽ làm nên việc lớn, bọn chúng ta nếu không về theo, ngày sau hối không kịp” [3]. Còn trẻ chăn trâu quanh vùng ngày càng mến phục và rủ nhau tìm về với Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh gây dựng thanh thế Mọi người đang xôn xao vì chuyện cờ lau tập trận của cậu bé họ Đinh thì hàng loạt sự kiện lớn lao rung chuyển núi sông liên tiếp truyền đến Hoa Lư. Kiều Công Tiễn giết Dương Đình Nghệ để đoạt chức Tiết độ sứ [4]. Rồi Ngô Quyền, thứ sử Ái Châu kéo quân ra hỏi tội kẻ phản trắc. Công Tiễn rước quân Nam Hán về chống lại Ngô Quyền. Cũng năm ấy, Ngô Quyền giết Công Tiễn và bố trận thủy chiến ở sông Bạch Đằng để chống giặc [5]. Đội chiến thuyền của giặc Nam Hán cùng với viên tướng Hoằng Tháo bị chôn vùi dưới sông nước. Sông Bạch Đằng đỏ ngầu máu giặc. Đất nước thanh bình, Ngô Quyền lên ngôi vua và đóng đô ở Cổ Loa [6]. Năm ấy cậu bé họ Đinh vừa tròn mười sáu tuổi [7]. Những năm tháng thanh bình chưa được bao lâu lại có tin sét đánh Ngô Vương Quyền mất ở Cổ Loa [8], Dương Tam Kha tiếm ngôi vua, tự xưng là Bình Vương. Ngô Xương Ngập con trai của Ngô Quyền phải trốn tránh. Thổ hào các nơi nổi lên chiếm giữ mỗi người một vùng nhằm thôn tính lẫn nhau. Thấy cảnh đất nước bị chia xé, nghĩ mình không thể ngồi yên được. Bộ Lĩnh liền họp bạn bè lại mà nói rằng – Chúng ta không tập trận giả như trước nữa phải đánh trận thật. Trai thời loạn không thể khoanh tay ngồi một xó mà nhìn. Đất nước đang cần đến chúng ta. Ai nấy đều cho lời nói của Bộ Lĩnh là phải, liền chia nhau đi tập hợp các bạn bè, rủ nhau theo về với Bộ Lĩnh để cùng lo việc nước. Bộ Lĩnh mổ bò khao quân và kéo về đóng ở sách Đào Úc [9]. Cả châu Đại Hoàng [10] đã thuộc quyền kiểm soát của Bộ Lĩnh, chỉ còn sách Bông do Đinh Dự chiếm giữ. Bộ Lĩnh đem quân đến thuyết phục, Đinh Dự ở sách Bông nghe tin quân Hoa Lư kéo đến, liền quát – Thằng Bộ Lĩnh này láo thật, nó dám đánh lại cả chú nó! Rồi tung quân ra đuổi đánh. Thấy vậy, Bộ Lĩnh ngửa mặt lên trời than “Trời ơi! Ta đâu muốn có chuyện nồi da nấu thịt này!”. Bộ Lĩnh thu quân chạy. Đinh Dự đuổi đến Đàm Gia, thấy cầu gãy, rút quân về. Qua nhiều đêm suy nghĩ, Bộ Lĩnh quyết tâm thu phục sách Bông bằng được. Bộ Lĩnh tập hợp dư chúng, thu thập thêm quân sĩ, lại dẫn đại quân đến sách Bông. Tới nơi, Bộ Lĩnh cho người mời Đinh Dự ra nói chuyện. Thấy quân của Bộ Lĩnh đông, Đinh Dự không dám tung quân đánh đuổi mà chỉ ra lệnh đóng chặt cổng, leo lên thành quan sát. Thấy chú, Bộ Lĩnh gọi – Chú ơi! Cháu không chống lại chú, sao chú đuổi đánh cháu. Hiện nay đất nước loạn lạc, cả châu Đại Hoàng đều ở trong tay cháu, chỉ còn sách Bông của chú đứng một mình thôi. Nếu mai đây có kẻ khác đến đánh phá, chú cháu ta mỗi người một phương, làm sao mà chống giữ nổi. Cháu muốn hội quân với chú để cùng lo việc lớn. Đinh Dự cảm động. Mối tình máu mủ ruột thịt sống lại trong lòng ông già. Đinh Dự sai mở cổng đón Bộ Lĩnh vào và giao sách Bông lại cho cháu. Thu phục được sách Bông, thế lực của Bộ Lĩnh càng lớn mạnh. Nhưng chí lớn của Bộ Lĩnh không dừng lại ở một châu nhỏ hẹp. Từ Hoa Lư, Bộ Lĩnh vẫn hàng ngày theo dõi tình hình loạn lạc đang diễn ra ở khắp nơi trên đất nước rộng lớn. Những tiếng kêu than rên siết vì cảnh nồi da nấu thịt, những biến động lục đục ở triều đình Cổ Loa hàng ngày vẫn đến tai Bộ Lĩnh. Năm ấy, ở Cổ Loa, Dương Tam Kha sau khi tiếm ngôi được sáu năm, sai Xương Văn cùng hai quan sứ là Dương Cát Lợi và Đỗ Cảnh Thạc đi dánh dẹp hai thôn ở Thái Bình [11]. Đến Thanh Liêm, Xương Văn bàn với tướng sĩ dẫn quân về đánh úp Tam Kha, bắt được giáng làm Tương Dương công. Xương Văn giành lại ngôi vua, xưng là Nam Tấn Vương và đón Xương Ngập về cùng trông coi việc nước. Thấy thế lực của Bộ Lĩnh ngày càng một mạnh, triều đình Cổ Loa muốn đánh dẹp để trừ hậu họa. Được tin, Bộ Lĩnh cho con trai là Đinh Liễn đến Cổ Loa để làm kế hòa hoãn. Nam Tấn Vương và Thiên Sách Vương Xương Ngập bắt giữ Đinh Liễn rồi cất quân đánh Bộ Lĩnh [12]. Bộ Lĩnh đóng chặt cửa động, chống cự đến cùng. Đánh nhau với Bộ Lĩnh hơn một tháng trời không hạ được, Nam Tấn Vương bèn treo Đinh Liễn lên ngọn cây dọa Nếu Bộ Lĩnh không hàng sẽ giết chết Đinh Liễn. Bộ Lĩnh thấy vậy giận dữ quát “Bậc đại trượng phu lẽ nào vì con trẻ mà bỏ việc lớn” [13], rồi sai hơn mười tay nỏ cùng nhằm vào Đinh Liễn chực bắn. Trước quyết tâm của Bộ Lĩnh, Nam Tấn Vương hoảng sợ không dám giết Đinh Liễn mà rút quân về. Bộ Lĩnh cười nói với chư tướng – À, ra Bộ Lĩnh này không sợ mất con mà lũ kia lại sợ mất đầu! Sau đó Đinh Liễn được thả về Hoa Lư. Đánh lui được quân của triều đình Cổ Loa, uy danh của Bộ Lĩnh càng thêm lừng lẫy. Nhân dân kéo về theo Bộ Lĩnh ngày càng đông. Quân dân châu Đại Hoàng càng vui mừng phấn khởi, còn riêng Bộ Lĩnh vẫn chưa vui. Đã nhiều đêm không ngủ, Bộ Lĩnh xách gươm đi tuần trong doanh trại. Nhìn núi non hùng vĩ tắm ánh trăng, nghe tiếng cuốc kêu ra rả trong khe núi, Bộ Lĩnh càng sốt ruột vì việc lớn chưa thành. Bộ Lĩnh cho gọi chư tướng đến cùng uống rượu thưởng trăng. Thấy chủ tướng không được vui, có người hỏi, Bộ Lĩnh nói với mọi người – Non sông bị chia xé, nhân dân điêu đứng tan tác, cảnh nồi da nấu thịt đang diễn ra, ta e rồi đây chỉ làm mồi cho giặc. Trước tình cảnh ấy, các người bảo ta vui làm sao được. Nhiều người bàn nên ra quân. Bộ Lĩnh lại nói – Con chim bằng bay xa vạn dặm là nhờ có bộ cánh khỏe. Ta có các ngươi như chim có bộ cánh. Nhưng chim thì bay trên trời còn ta lại vác gươm đi dưới đất. Ra quân, nhưng thế chưa vững, lực chưa mạnh, thì sao cho vẹn toàn. Bộ Lĩnh quyết định đến cửa Bố [14] nương nhờ Trần Lãm. Hiện Trần Lãm đang chiếm giữ một vùng rộng lớn ở Bố Hải Khẩu, xưng là Trần Minh Công. Tuy có thế lực mạnh nhưng Trần Lãm đã già yếu, lại không có con, nên ông ta cũng chỉ muốn được yên thân. Chi bằng đến nương tựa và tìm cách thuyết phục. Mọi người cho kế đó là phải. Bộ Lĩnh tìm đến gặp Trần Lãm. Trong một cuộc hội kiến, Trần Lãm hỏi Bộ Lĩnh – Đinh tướng quân định đến mượn người mượn đất của ta chăng? Bộ Lĩnh đáp – Thưa sứ quân, đất đai, quân dân ở châu Đại Hoàng hay cửa Bố đều là của chung thiên hạ, phải đâu riêng của ngài hay của tôi, mà dám nói chuyện vay mượn? Trần Lãm trừng mắt ngạc nhiên – Là của chung? – Vâng, là của chung. Vì vậy tôi đến đây mong được ngài sai bảo để cùng lo việc chung… Trần Lãm đắc ý cười – Tiếng đồn về người con trai của thứ sử Hoan Châu quả không ngoa. Trần Lãm nhận Bộ Lĩnh làm con nuôi. Thấy mình đã già yếu không lo được việc lớn nữa, ít lâu sau Trần Lãm giao cả binh quyền lại cho Bộ Lĩnh. Một dải đất rộng lớn từ châu Đại Hoàng đến Bố Hải Khẩu đều thuộc quyền điều khiển của Bộ Lĩnh. Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân Sau khi mở rộng được địa bàn hoạt động, Bộ Lĩnh lo thu phục nhân tài, rèn luyện quân sĩ, tích lương, chờ thời cơ ra quân để thống nhất đất nước. Thời cơ đã đến. Quân do thám cho hay triều đình Cổ Loa sụp đổ. Từ khi Thiên Sách Vương Xương Ngập mất [15], Nam Tấn Vương Xương Văn lên cầm quyền phải xin mệnh lệnh của chúa Nam Hán. Nam Hán phong cho Xương Văn chức Tĩnh hải quan tiết độ sứ. Thực quyền của triều đình nhà Ngô lúc này không vượt quá một dải đất hẹp. Cách Cổ Loa chưa đầy vài mươi dặm, đã có nhiều người nổi dậy cát cứ xưng hùng. Nam Tấn Vương có ý muốn đánh dẹp các nơi nhưng bất lực. Đến nay trong khi đi đánh hai thôn ở Thái Bình, Xương Văn bị tên nỏ mai phục bắn chết [16]. Thấy vậy, nha tướng cũ của Xương Văn là Lữ Xử Bình và thứ sử Phong Châu Kiều Tri Hựu tranh chấp nhau làm vua. Ngô Xương Xi con Xương Ngập chạy vào Ái Châu giữ đất Bình Kiều [17]. Đỗ Cảnh Thạc, nha tướng cũ của Ngô Quyền, từ lâu đã rút về chiếm vùng Đỗ Động [18], đào hào xây thành tính kế lâu dài. Trước tình thế đó, Bộ Lĩnh đập bàn quát – Phường chó chết! Không sớm quét sạch bọn phá nước hại dân này thì non sông có phen lại rơi vào tay giặc ngoại xâm mất! Bộ Lĩnh triệu tập bộ tướng họp bàn việc lớn. Xung quanh bàn rượu, chư tướng tính kế ra quân. Đếm trên đầu ngón tay, hiện nay ngoài Cổ Loa còn có mười một sứ quân cần phải thu phục Kiều Công Hãn giữ Phong Châu [19], Kiêu Thuận giữ Hồi Hồ [20], Nguyễn Khoan giữ Nguyễn Gia Loan [21], Nguyễn Thủ Tiệp giữ Tiên Du [22], Nguyễn Siêu giữ Phù Liệt [23], Lý Khuê giữ Siêu Loại [24], Lữ Đường giữ Tế Giang [25], Phạm Bạch Hổ giữ Đằng Châu [26], Ngô Nhật Khánh giữ Đường Lâm [27], Ngô Xương Xí giữ Bình Kiều và Đỗ Cảnh Thạc giữ Đỗ Động. Trong tình thế ấy ra quân sao cho toàn thắng? Bộ Lĩnh quyết định trước khi đánh dẹp các sứ quân ấy hãy đánh vào Cổ Loa. Cổ Loa là đất trọng yếu, hiện nay đang rối loạn và hầu như vô chủ. Bình được trung tâm Cổ Loa lòng người các châu quận sẽ hướng về theo, các sứ quân tất có kẻ xin hàng giặc ngoài cũng không còn cơ hội để nhòm ngó nước ta nước. Chư tướng cho là phải. Bộ Lĩnh cử Đinh Liễn cùng Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Đinh Điền đi đánh Cổ Loa. Quân của Đinh Liễn tiến vào Cổ Loa như vào chỗ không người. Lữ Xử Bình và Kiều Tri Hựu bất tài, chưa đánh đã tan. Chỉ có Cảnh Thạc là đáng kể, thì đã rút quân về Đỗ Động. Nghe tin đại quân của Bộ Lĩnh kéo đến, nhân dân Cổ Loa vui mừng đem thịt ra đón rước. Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền và Nguyễn Bặc chiếm Cổ Loa, phủ dụ dân chúng và chia nhau điều khiển công việc. Sau khi chiếm được Cổ Loa, Đinh Liễn sai Lê Hoàn đi chinh phục các sứ quân quanh vùng. Lý Khuê ở Siêu Loại, Lữ Đường ở Tế Giang, Nguyễn Siêu ở Phù Liệt xin hàng. Được tin triều đình Cổ Loa lục đục, Giao Châu loạn lạc, chúa Nam Hán là Lưu Xưởng vì đang lo đối phó với nhà Bắc Tống nên không tính chuyện xâm lược nước ta được. Nhưng nghe tin Đinh Liễn đã dẹp yên Cổ Loa, Lưu Xưởng bèn sai sứ sang phong cho Đinh Liễn làm Giao Châu tiết độ sứ để ràng buộc [28]. Biết chuyện, Bộ Lĩnh đem quân đến Cổ Loa gặp Đinh Liễn hỏi – Ta nghe nói sứ Nam Hán sang, hắn đến có việc gì? – Thưa cha, chúa Nam Hán phong cho con làm Giao Châu tiêt độ sứ. Đinh Liễn đưa tờ chiếu của Lưu Xưởng cho cha. Bộ Lĩnh xé nát ra làm nhiều mảnh, nói với Đinh Liễn – Có phải đất đai của chúng đâu mà chúng có quyền phong cấp. Giá ăn cướp được nước ta chúng cũng chẳng tha đâu! Bộ Lĩnh đòi giết chết sứ Nam Hán, nhưng sứ đã về nước. Đinh Liễn, người con trai ngoài hai mươi tuổi, đang say sưa với chiến công đầu, bừng tỉnh trước cơn thịnh nộ của bố. Bộ Lĩnh dặn dò và giao công việc ở Cổ Loa cho Đinh Liễn, Nguyễn Bặc rồi cùng Lê Hoàn rút về Cửa Bố. Quả nhiên bình được Cổ Loa thế lực của Bộ Lĩnh ngày càng lớn mạnh. Ngô Nhật Khánh ở Giao Thủy, Phạm Phòng Át ở Đằng Châu cũng lần lượt đến xin hàng. Trong lúc đó lại có tin Kiều Công Hãn ở Phong Châu và Đỗ Cảnh Thạc ở Đỗ Động đang rục rịch chiếm lại Cổ Loa. Bộ Lĩnh quyết định phải gấp rút ra quân đánh dẹp. Bộ Lĩnh cho quân do thám bám sát tình hình Đỗ Động và chia quân đánh Châu Phong và Châu Ái trước. Ngô Xương Xí ở Bình Kiều chưa đánh đã tan, chỉ có Kiều Công Hãn ở Phong Châu đóng cửa thành chống cự. Bộ Lĩnh hạ lệnh cho Lưu Cơ vây thành. Đã hai ngày Công Hãn không chịu hàng. Bộ Lĩnh cho quân lính chuẩn bị mồi rơm. Đến ngày thứ ba Công Hãn vẫn chưa chịu hàng. Bộ Lĩnh ra lệnh đốt thành. Nhưng rồi Lưu Cơ lại được lệnh khoan hãy đốt thành, chỉ tập trung quân phá cổng thành, bắt sống Công Hãn không được chém giết bừa bãi. Thành bị phá, Kiều Công Hãn bỏ thành theo cổng sau chạy ra bến Bạch Hạc, xuôi thuyền về Giao Thủy. Sau hàng loạt chiến công, tinh thần quân sĩ thêm phấn chấn. Binh lực của Bộ Lĩnh mạnh như vũ bão, đánh đâu được đấy. Chỉ còn Cảnh Thạc ở Đỗ Động chưa chịu hàng phục. Bộ Lĩnh bàn kế ra quân đánh Cảnh Thạc. Trong lúc sĩ khí đang lên thì Trần Lãm hấp hối trên giường bệnh. Biết mình không thể sống được nữa Trần Lãm cho gọi Bộ Lĩnh vào mà nói – Tướng quân đến với ta… nay toàn cõi Nam bang đã về tay tướng quân gần hết… Tướng quân xứng đáng là người đảm đang việc lớn của thiên hạ… Trần Lãm qua đời [29]. Chôn cất Trần Lãm xong. Bộ Lĩnh bàn chuyện ra quân. Trong cuộc họp các tướng lĩnh, mọi người tôn Bộ Lĩnh lên làm Vạn Thắng Vương và bàn dời đại bản doanh về Hoa Lư rồi hãy ra quân. Một tháng sau, từ Hoa Lư đại quân của Bộ Lĩnh chia làm bốn cánh kéo cờ Vạn Thắng Vương lên đường đi đánh dẹp Cảnh Thạc. Cảnh Thạc, nha tướng cũ của Ngô Quyền, là người có nhiều mưu trí, đã từ lâu chiếm giữ một vùng rộng lớn, đắp thành ở trang Liệp Hạ [30] để trấn giữ mặt tây, mặt đông có thành Bảo Đà [31]. Ngày đêm Cảnh Thạc lo luyện quân, tích lương, nuôi chí mưu đồ vương bá. Đại quân Hoa Lư do Đinh Bộ Lĩnh chỉ huy chia làm bốn mũi tấn công thành Đỗ Đồng. Thành bị hạ, tướng giữ thành chạy trốn. Hôm đó Cảnh Thạc đang ở Bảo Đà nên thoát chết. Mất thành, Cảnh Thạc thu thập dư chúng quyết tâm kéo về chiếm lại, thề sống mái với Bộ Lĩnh. Bộ Lĩnh bàn mưu cho Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Lê Hoàn chia quân đến Bảo Hà khiêu chiến và đón Cảnh Thạc ở dọc đường. Theo kế hoạch của Bộ Lĩnh, gặp Cảnh Thạc các tướng sĩ giả thua chạy để nuôi lòng kiêu ngạo và chủ quan của hắn, tìm mọi cách dử về Đỗ Động, Cảnh Thạc mắc mưu. Đến nơi thấy cổng thành Đỗ Động đóng chặt, từ trong thành tên bắn ra như mưa. Ngọn cờ Vạn Thắng Vương bay phấp phới trên đỉnh cột càng làm cho Cảnh Thạc thêm phẫn uất. Cảnh Thạc thúc quân vây thành, cố đánh phá, quyết bắt sống Bộ Lĩnh. Bỗng nhiên có tiếng reo hò vang dậy từ tứ phía. Quân của Lê Hoàn, Nguyễn Bặc, Đinh Điền đã kéo về đánh mặt sau. Bộ Lĩnh liền tung quân dũng mãnh trong thành đánh ra. Bị kẹp vào giữa, Cảnh Thạc liều chết trà trộn vào đám loạn quân cùng vài người thân cận lọt được vòng vây, nhằm hướng Bắc chạy thoát. Toàn thắng, Bộ Lĩnh dẫn đại quân về Hoa Lư. Kinh đô Hoa Lư và nước Đại Cồ Việt Đánh dẹp được Cảnh Thạc, Đinh Bộ Lĩnh chấm dứt thời kỳ loạn lạc mười hai sứ quân kéo dài hơn hai mươi năm trời [32]. Đất nước trở lại thống nhất và thanh bình. Nhân dân vui mừng được an cư lạc nghiệp. Trong lúc khắp nơi tưng bừng vui hội thống nhất non sông, thì ở Hoa lư, Bộ Lĩnh lên ngôi vua. Bề tôi dâng tôn hiệu Đại Thắng Minh hoàng đế. Lên ngôi, nhà vua băn khoăn tìm đất định đô và đặt tên nước. Trong một tiệc rượu có đông đủ bộ tướng và mưu sĩ, Bộ Lĩnh nói với mọi người – Chọn đất định đô là việc hệ trọng. Ta vẫn có ý muốn chọn Đàm Gia nhưng Đàm Gia tuy bằng phẳng mà không lợi địa thế, còn Hoa Lư thì hiểm trở nhưng lại hẹp. Mọi người suy nghĩ, Lê Hoàn bàn nên đóng đô ở Hoa Lư [33]. – Hoa Lư tuy có hẹp nhưng hiểm trở. Từ Hoa Lư vươn tay ra mặt Bắc cũng gần. Mặt sau dựa lưng vào Hoan Ái vững chắc. Vả lại một khi giặc tràn sang, từ Hoa Lư ta có đủ thì giờ để trở tay đối phó. Bộ Lĩnh cho là phải, Ngô Chân Lưu, một nhà sư trước đây đã có dịp cùng Bộ Lĩnh hội kiến, hôm nay cũng có mặt ở đây, nhìn Lê Hoàn thầm phục viên võ tướng có tài mà lời nói cử chỉ lại giống như một văn quan. Khi bàn đến việc chọn tên nước, Bộ Lĩnh chỉ vào Ngô Chân Lưu – Nhà sư học rộng biết nhiều, hãy cho ta biết ý nhà ngươi ra sao? Ngô Chân Lưu đáp – Tâu Hoàng đế, cứ như kẻ bần tăng này, thì nước ta rộng, dân ta đông, tuy trước đây đã nhiều năm bị đô hộ dưới ách ngoại bang, nhưng cũng nhiều phen dân ta nổi dậy đánh đuổi chúng, giành lại độc lập. Hiện nay một dải non sông tươi đẹp vẫn hiên ngang còn đó, ta nên đặt tên nước là Đại Việt. Bộ Lĩnh nghe nói, gõ gươm xuống bàn cười – Nhà sư nói hợp ý ta! Họ có đất nước, có vua, có kinh đô của họ, ta cũng có nước, có kinh đô của ta, chịu thua kém gì ai. Rồi đây còn phải đặt niên hiệu riêng của ta nữa chứ [34]! Mọi người cười vang. Như chợt nhớ điều gì, nhà vua lại nói tiếp – Đại Việt đã là hay nhưng toàn chữ của nước người. Ta phải nói sao cho cả bàn dân thiên hạ hiểu và biết rằng nước ta to lớn. Ta đặt tên nước Đại Cồ Việt [35] có phải hay hơn không? Ai nấy cười vui sướng với tên nước Đại Cồ Việt, nghe gần gũi với mình hơn. Cho đến vò rượu cuối cùng dốc cạn, nhà vua và mọi người vẫn chưa hết cười nói rộn ràng chung quanh chuyện định đô ở Hoa Lư và đặt tên là nước Đại Cồ Việt. Mấy hôm sau, một ngày đẹp trời, nhà vua làm lễ lên ngôi hoàng đế [36]. Tại Hoa Lư giữa hai hàng gươm giáo tuốt trần, Đinh Tiên Hoàng ngồi trên chiếc kiệu long tiến về bệ rồng xây bằng đá ở ngoài trời. Tiếng chiêng trống hòa vào nhau vang rền. Ngọn cờ đại mang năm chữ “Đại Thắng Minh Hoàng đế” bay phần phật trên đỉnh cột. Cờ xí rợp trời. Tiếng trẻ em reo hò không lúc nào ngớt. Trừ trên bệ rồng, Đinh Tiên Hoàng bố cáo cho mọi người biết giặc giã đã yên, đất nước từ nay thống nhất. Nước Đại Cồ Việt ra đời và định đô ở Hoa Lư. Tiếng hò reo nổi lên như sấm. Đinh Tiên Hoàng đưa mắt nhìn mọi người. Chung quanh nhà vua quân dân sát vai nhau, tầng tầng lớp lớp. Đôi mắt nhà vua nhìn bao quát những người đã cùng vào sinh ra tử trong hơn hai mươi năm trời. Những con người ấy cũng thiết tha với đất nước, sẵn sàng bỏ mình vì ngày mai của Tổ quốc và gắn bó với nhà vua như cá với nước. Đôi mắt nhà vua bỗng dừng lại ở đám trẻ vác cờ lau chạy nháo nhác vòng ngoài. Hình ảnh thời niên thiếu của nhà vua ba mươi năm trước, nay hiện về trong đám trẻ nhỏ. Nhà vua bước xuống bệ rồng, dắt Lê Hoàn, rẽ đám đông, đi về phía lũ trẻ. Mọi người ngạc nhiên nhìn theo. Trẻ con sợ hãi chạy toán loạn. Nhà vua cười, vẫy tay gọi lũ trẻ. Thấy vậy, chúng chạy đến vây quanh nhà vua. Đinh Tiên Hoàng xoa đầu từng đứa và tiện tay thu mấy bông lau rồi cùng Lê Hoàn về chỗ cũ. Trên bệ rồng, một tay cầm hoa lau, một tay nắm chặt đốc gươm, cất tiếng sang sảng – Các người theo ta từ lúc bốn phương loạn lạc, đất nước còn bị chia xẻ. Nay bọn giặc cỏ làm tan nát đất nước đã bị quét sạch. Ta ra lệnh cho các ngươi mở tiệc để chào mừng nước Đại Cồ Việt to lớn của chúng ta. Nói đến đây, nhà vua chỉ tay về phía đàn trẻ nhỏ và quay lại ra lệnh cho Lê Hoàn – Lê tướng quân nhớ ban cho lũ trẻ kia trâu rượu và gạo nếp để chúng cùng hưởng vui. Vận nước sau này là ở trong tay lũ chúng. Ai nấy đều sung sướng. Riêng các cụ già và những người nhiều tuổi lại còn hiểu được sâu sắc hơn việc làm đó của nhà vua. Con người hôm nay lên ngôi, đang đứng oai nghiêm trước mặt họ, không phải là ai khác, chính là cậu bé họ Đinh năm xưa. Ba mươi năm trước đây, người ấy đã từng kết bạn với lũ trẻ chăn trâu và hàng ngày cờ lau tập trận ở vùng đồi núi châu Đại Hoàng này. Con người ấy đã dẫn họ và con cháu họ vác gươm đi chiến đấu hơn hai mươi năm ròng rã cho nền thống nhất của đất nước mến yêu. Con người ấy đã cùng họ dựng nên nước Đại Cồ Việt, làm rạng rỡ cho tổ tiên, cho nòi giống. Trong ngày vui toàn thắng, giữa kinh đô Hoa Lư còn ngổn ngang hào lũy, nhà vua cùng mọi người đều thấy tự hào và kiêu hãnh – niềm tự hào và kiêu hãnh cao đẹp của một dân tộc biết đoàn kết thành một khối vững mạnh để tồn tại. Từ kinh đô Hoa Lư – trái tim của nước Đại Cồ Việt, tỏa ra một nguồn vui phơi phới như những đỉnh núi đá nhấp nhô, sắc cạnh, vây bọc Hoa Lư, đang chọc trời vươn lên trong nắng đẹp. Câu chuyện Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân – Theo Nguyễn Anh Công lao của Đinh Bộ Lĩnh Đinh Bộ Lĩnh là vị hoàng đế sáng lập ra triều đại nhà Đinh và nước Đại Cồ Việt trong lịch sử Việt Nam. Đây là dấu mốc quan trọng, mở ra một chương mới cho lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Sinh ra giữa thời kỳ loạn lạc, đất nước chia năm xẻ bảy sau cái chết của Ngô Quyền, Đinh Bộ Lĩnh đã có công lao dẹp yên các thế lực cát cứ của mười hai sứ quân, thống nhất đất nước, tạo điều kiện cho đất nước bước vào thời kì ổn định lâu dài. Trong 12 năm làm vua, Đinh Bộ Lĩnh đã xây dựng được một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên ở nước ta, có đủ triêu nghi, phẩm phục, có quân đội hùng mạnh, pháp chế nghiêm minh. Điều này chính là cơ sở để cho Lê Hoàn đánh bại quân xâm lược nhà Tống năm 981, bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc. Ghi chú trong truyện Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân Hoan Châu tức Nghệ An ngày nay Động cũng như sách, bản, nguồn… ở miền ngược, giống như làng, xã, thôn… ở vùng xuôi. Nguyên văn trong Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch của Viện Sử học. Năm 937. Ngô Quyền phá giặc Nam Hán trên sông Bạch Đằng vào năm 938. Năm 930. Các sách sử của ta đều chép “Đinh Công Trứ chết, Bộ Lĩnh còn nhỏ” hay “vua còn nhỏ mồ côi cha”. Các sách sử còn cho hay Bộ Lĩnh mất vào năm Kỷ Mão 979 thọ 56 tuồi. Bên cạnh đó, sử còn cho ta biết thêm Đinh Công Trứ, cha Bộ Lĩnh giữ chức thứ sử Hoan Châu dưới thời Ngô Quyền 939 – 944. Như vậy Đinh Bộ Lĩnh sinh vào năm 923, và cho rằng Đinh Công Trứ mất vào năm đầu thời Ngô Quyền đi nữa 939, thì lúc đó Bộ Lĩnh cũng đã 16 tuổi. Năm 944. Thuộc huyện Gia Viễn, Ninh Bình bây giờ. Tức Gia Viễn, Ninh Bình. Theo Cương Mục, thuộc miền Quốc Oai Hà Tây, ở hữu ngạn sông Hát. Năm 951. Nguyên văn trong Việt sử lược, bản dịch của nhà XB Sử học. Cửa Bố hay Bố Hải Khẩu, thuộc xã Kỳ Bố, huyện Vũ Tiên, Thái Bình. Năm 954. Năm 965. Ở huyện Triệu Sơn, Thanh Hóa, mấy chục năm trước đây vẫn còn di tích thành xưa Thuộc huyện Thanh Oai, Hà Nội ngày nay. Nay còn dấu vết thành cũ ở làng Phú Lâm, huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Phú. Huyện Cẩm Khê, Vĩnh Phú, hiện còn dấu thành xưa. Theo Cương mục, Nguyễn Gia Loan, là tên núi ở xã Vĩnh Mỗ huyện Yên Lạc, là trị sở của Nguyễn Khoan khi giữ vững Tam Đái. Nay là Tiên Du, Bắc Ninh. Thuộc Thanh Trì, Hà Nội. Nay là Thuận Thành, Bắc Ninh. Huyện Văn Giang, Hưng Yên, nay còn đền thờ Lữ Tá Công. Thuộc Hưng Yên ngày nay. Nay là huyện Phúc Thọ, Hà Nội. Có tài liệu nói Ngô Nhật Khánh giữ miền Giao Thủy, này là Xuân Trường, Nam Định. Sách Việt sử thông giám cương mục , tiền biên, bản dịch của Viện Sử học, xuất bản năm 1957, cho hay ”Theo Ngũ đại sử năm Đại Bảo thứ 8 đời Lưu Xưởng, Xương Văn ở Giao Châu mất, người giúp việc là Lữ Xử Bình cùng với thứ sử Phong Châu là Kiều Tri Hựu tranh nhau lên làm vua. Đinh Liễn đem quân đi phá được. Lưu Xưởng cho Đinh Liễn làm tiết độ sứ Giao Châu”. Cũng có tài liệu nói Trần Lãm còn sống cho đến khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi vua. Ít lâu sau mới mất. Xã Tuyết Nghĩa, huyện Quốc Oai, Hà Nội còn dấu thành cũ của Cảnh Thạc, tục gọi là thành Quèn. Nay ở làng Bảo Hà, huyện Thanh Oai, Hà Nội còn dấu thành cũ. Kể từ khi Ngô Quyền mất 944 đến khi Bộ Lĩnh thống nhất được đất nước 968 gồm 24 năm. Bộ Lĩnh dấy binh ở động Hoa Lư, cách kinh đô Hoa Lư gần 20 km, về phía Tây Bắc. Ở kinh đô Hoa Lư, thuộc xã Trường Yên, huyện Gia Khánh, Ninh Bình hiện nay, còn khai quật được dấu vết thành lũy cũ. Năm Canh Ngọ 970 Đinh Tiên Hoàng đặt niên hiệu là Thái Bình. “Cồ” tiếng Việt cổ của ta có nghĩa là to lớn. Đinh Bộ Lĩnh làm vua được 12 năm. Sau khi thống nhất đất nước. Bộ Lĩnh xây dựng một nhà nước phong kiến trung ương tập quyền đầu tiên có đủ triều nghi, phẩm phục, có quân đội hùng mạnh, pháp chế nghiêm minh. Trên cơ sở nước Đại Cồ Việt thống nhất và vững mạnh ấy, năm 981 Lê Hoàn đã đánh bại quân xâm lược nhà Tống, bảo vệ được độc lập cho Tổ quốc. Năm 979, Đinh Bộ Lĩnh và con trai là Đinh Liễn bị Đỗ Thích giết chết trong một đêm hai cha con say rượu nằm ngủ ở cấm đình. Hiện nay mộ Đinh Bộ Lĩnh còn ở trên núi Mã Yên thuộc xã Trường Yên, huyện Gia Khánh, tỉnh Ninh Bình. Dưới chân núi có đền thờ gọi là đền Đinh.
câu chuyện về đinh bộ lĩnh