Mùa xuân sinh ra cho con người tận hưởng, cho hạnh phúc đến với con người. Hình ảnh so sánh ấy như một người đang đợi chờ, sẵn sàng dâng hiến cho tình yêu. Chính vì thế tác giả sau khi thốt lên mới lại đột nhiên tiếc nuối, khiến nhịp thơ cũng bất ngờ chùng hẳn
"Với bao tà áo xanh đây mùa thu. Hoa lá tàn, hàng cây đứng hững hờ. Lá vàng từng cánh rơi từng cánh. Rơi xuống âm thầm trên đất xưa. Gửi gió cho mây ngàn bay. Gửi bướm muôn màu về hoa. Gửi thêm ánh trăng màu xanh lá thư. Về đây với thu trần gian. Gửi gió cho mây ngàn bay
Đề 1 : ĐÂY MÙA THU TỚI - Xuân Diệu 1/ Cảm giác chung của bài thơ là buồn. Buồn vì hàng liễu rũ. Buồn vì cái lạnh len lỏi đây đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì có sự chia lìa, tan tác từ hoa cỏ, chim muông tới con người. Buồn vì có một cái gì như là nỗi nhớ nhung ngẩn
Đây mùa thu tới là bài thơ thu đầy cảm xúc của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu, sau khi tìm hiểu bài Phân tích những cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu trước thiên nhiên thể hiện trong bài Đây mùa thu tới, các em có thể khám phá những đặc sắc của bài thơ qua bài: Bình giảng
Đây mùa thu tới, mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh. Bằng cảm thức về thời gian vô cùng nhạy bén, ngay khi mọi vật còn xanh tươi đầy sức sống thì Xuân Diệu đã nhận thấy trong đó phút giây cuối cùng rồi u ám sẽ đến.
. Những bài văn mẫu hay lớp 11Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân DiệuVới Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao. Hãy cùng phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu để cảm nhận những nét đẹp khi thu về trong thơ của "nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới".Văn mẫu lớp 11 Cảm nhận về bài thơ Vội Vàng của Xuân DiệuPhân tích nét chung trong cảnh thiên nhiên của Huy Cận, Xuân Diệu, Hàn Mạc TửBài tham khảo 1Xuân Diệu 1916-1985 là nhà thơ tình, viết hay nhất và nhiều nhất trong thời đại chúng ta. Thi sĩ đã để lại trên 400 bài thơ tình,; là nhà thơ "mới nhất trong những nhà thơ mới". Xuân Diệu cũng là thi sĩ của mùa thu. Với Xuân Diệu nếu "Tình không tuổi và xuân không ngày tháng" thì cảnh thu chứa đựng biết bao tình thu, bao rung động xôn xao, bởi lẽ "Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền".Trong hai tập thơ viết trước Cách mạng "Thơ thơ" và "Gửi hương cho gió " có rất nhiều bài thơ nói đến sắc thu, hương thu, trăng thu, tình thu, thiếu nữ buổi thu về... Mùa thu thật đáng yêu, làm cho tâm hồn thi sĩ như dây đàn huyền diệu đang rung lên xao xuyến..."Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Diệu, rút trong tập "Thơ thơ", xuất bản năm 1938. Thu đến, xôn xao rung động đất trời. Cảnh vật đẹp mà thoáng buồn man mác. Lòng thiếu nữ càng trở nên bâng khuâng buổi thu nhận đầu tiên của thi sĩ Xuân Diệu về mùa thu không phải là âm thanh tiếng chày đập vải, không phải là ấn tượng "Ngô đồng nhất diệp lạc - Thiên hạ cộng trì thu" mà là ở dáng liễu, rặng liễu ven hồ, hay bên đường"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng".Cả một không gian "đìu hiu", buồn và vắng vẻ. Rặng liễu trầm mặc như "đứng chịu tang". Lá liễu buông dài như tóc nàng cô phụ "buồn buông xuống". Lá liễu ướt đẫm sương thu tưởng như "lệ ngàn hàng". Liễu được nhân hóa "đứng chịu tang", từ tóc liễu đến lệ liễu đều mang theo bao nỗi buồn thấm thía. Một nét liễu, một dáng liễu được miêu tả và cảm nhận đầy chất thơ. Biện pháp láy âm được Xuân Diệu vận dụng tài tình để tạo nên vần thơ giàu âm điệu, nhạc điệu "đìu hiu - chịu", "tang - ngàn - hàng", "buồn - buông - xuống". Đó là một điểm mạnh, khá mới mẻ trong thi pháp mà Xuân Diệu đã học tập được trong trường phái thơ tượng trưng Pháp trong thế kỉ mê ngắm "rặng liễu đìu hiu... ", nhà thơ khẽ reo lên khi chợt nhận thấy thu đã đến. Cách ngắt nhịp 4/3 với điệp ngữ "mùa thu tới" đã diễn tả bước đi của mùa thu và niềm mong đợi thu về bấy lâu nay trong lòng thi sĩ"Đây mùa thu tới/mùa thu tớiVới áo mơ phai/dệt lá vàng".Một vần lưng thần tình "tới - với", một chữ "dệt" tinh tế trong miêu tả và cảm nhận. Thu vừa tới, sắc màu cỏ cây vạn vật đều đổi thay, trở thành "mơ phai". Đó đây điểm tô một vài sắc vàng của lá, đúng là "dệt lá vàng". Câu thơ "Với áo mơ phai dệt lá vàng" là một câu thơ nhiều thi vị, nói lên cái hồn thu với sắc lá, gợi lên cảm giác thanh nhẹ, tươi sáng về mùa thu đáng yêu vô thể nói, khổ thơ đầu đã vẽ lên một bức tranh thu đẹp, thơ mộng, thấm một nỗi buồn từ cây cỏ đến lòng người, nhưng không ảm đạm, thê lương làm nặng trĩu lòng ngày mỗi đêm đi qua. Thu đã về và thu dần dần trôi qua. Cảnh vật biến đổi. Hoa đã "rụng cành". Tác giả không nói "đôi ba...", mà lại viết "hơn một" cách dùng số từ ấy cũng là một cách nói rất mới. Trong vườn, màu đỏ từng chấm nhỏ đang lấn dần, đã và đang "rũa màu xanh"! Cũng nói về sự biến đổi ấy, trong bài "Cảm thu, tiễn thu" thi sĩ Tản Đà viết"Sắc đâu nhuộm ố quan hàCỏ vùng cây đỏ bóng tà tà dương".Cây cối bắt đầu rụng lá trơ cành như đang "run rẩy", khẽ "rung rinh" trước những làn gió thu lành lạnh, se sắt. Khổ thơ thứ hai, chất thơ ấy là sự lay động xôn xao từ cảnh vật, từ hoa lá hơi may mà thấm vào hồn thi sĩ"Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu luồng run rẩy, rung rinh lá,Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh".Các từ láy "run rẩy", "rung rinh", "mỏng manh" là những nét vẽ thần diệu gợi tả cái run rẩy, cái rùng mình của cây lá buổi chiều thu. Nghệ thuật sử dụng các phụ âm , "r" rụng, rũa, run rẩy, rung rinh và phụ âm "m" một, màu, mỏng manh với dụng ý thẩm mĩ trong gợi tả và biểu cảm đặc sắc. Đó cũng là một nét mới trong thi pháp của Xuân thơ thứ 3, thi liệu vừa hiện thực vừa ước lệ tượng trưng, vừa kế thừa vừa cách tân sáng tạo. Cũng có trăng nhưng là "nàng trăng tự ngẩn ngơ" trên bầu trời. Không nói là trăng non đầu tháng, không hỏi "Trăng bao nhiêu tuổi trăng già" mà lại nói là "nàng trăng". Một hình ảnh đẹp, thơ mộng tả vầng trăng thu. Cũng ó núi, có non, lúc ẩn lúc hiện, "khởi sự" nhô lên cuối chân trời xa, qua lớp sương thu mờ. Trăng và núi trong thơ Xuân Diệu chứa đựng cái hồn thu muôn thuở của xứ sở quê hương, gần gũi và thân thuộc từ bao đời nay được vẽ lên thật đẹp"Thỉnh thoang nàng trăng tự ngẩn ngơNon xa khởi sự nhạt sương mờ... "Hai tiếng "đã nghe", "đã vắng" gợi tả cái không gian bao la, vắng vẻ của những buổi chiều thu lành lạnh"Đã nghe rét mướt luồn trong gió,Đã vắng người sang những chuyến đò"Cấu trúc câu thơ song hành và cách diễn tả cũng rất mới. Có chuyển đổi cảm giác giữa xúc giác và thính giác. Như vậy, sự cảm nhận của thi nhân về rét, về gió, về cái xa vắng không chỉ bằng giác quan mà còn bằng cả linh hồn nữa. Chữ "luồn" đã cụ thể hóa cái rét, cảm nhận được nó bằng trực giác. Rét mướt luồn trong gió thu hiu hắt chứ không phải là gió rét. Rõ ràng là chưa rét đậm, rét tê tái, đúng là cái rét, cái lành lạnh những chiều thu, những đêm tàn cuối là một bức tranh thu tuyệt đẹp. Có vẻ đẹp của thiên nhiên, của mây trời, cánh chim. Có vẻ đẹp thiếu nữ. Cảnh đẹp, người đẹp mà thoáng buồn mơ hồ mênh mông. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn đẹp chia li như "bèo dạt mây trôi" của tình ca! Thi sĩ đã lấy cái "động" của cánh chim bay, của áng mây chiều trôi để đặc tả cái êm đềm, yên tĩnh của cõi vật và lòng người"Mây vẩn từng không chim bay đi,Khí trời u uất hận chia li"...Trong cái êm đềm, xa vắng ấy hiện lên hình ảnh thiếu nữ "ít nhiều" chưa xác định. Buồn tương tư, "buồn không nói". Một dáng điệu "tựa cửa nhìn xa", một tâm hồn "nghĩ ngợi gì" rất mơ hồ, xa xăm"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì"Là mùa xuân hay mùa thu, là mùa hè hay mùa đông, giữa thiên nhiên trăm sắc nghìn hương ấy, hình ảnh thiếu nữ đa tình, duyên dáng luôn luôn thấp thoáng qua những vần thơ của Xuân Diệu. Thi sĩ đa tình nên thiếu nữ cũng đa tình?"Bên cửa ngừng kim thêu bức gấmHây hây thục nữ mắt như thuyền"."Nụ cười xuân" - Thơ thơTrong chùm thơ thu của Yên Đổ, tình thu buồn thấm thía cô đơn được thể hiện qua hình ảnh một ông lão, lúc đang "tựa gối ôm cần" trên một chiếc thuyền câu "bé tẻo teo" giữa chiếc ao thu "lạnh lẽo", lúc là một cụ già đang ngồi uống rượu ngà ngà say trong đêm sâu, có lúc lại là một nhà nho đang lặng ngắm cảnh thu, muốn cầm bút đề thơ mà phân vân, lưỡng lự... Còn trong thơ thu của Xuân Diệu là hình bóng một giai nhân trong tương tư, đang mộng tưởng. Đó cũng là một nét mới nói về mùa thu trong thơ Xuân Diệu. Có thể nói trạng thái buồn mơ hồ, buồn không rõ nguyên cớ là một nét tâm trạng rất điển hình của hồn thơ Xuân Diệu"Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói... "Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn...".Đây mùa thu tới" là một bài thơ thu tuyệt bút của Xuân Điệu. Bao nhiêu nét thu là bấy nhiêu nét vẽ tài hoa. Dáng thu, sắc thu, tình thu đều đẹp mà buồn, bao nên cái hồn thu mênh mang, xao xuyến. Đáng yêu nhất là hình ảnh thiếu nữ, một dáng thu yêu kiều mộng tưởng "Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì". Một trái tim đa tình, một ngòi bút tài hoa. Cách cảm và cách diễn tả rất mới, rất thơ. Đằng sau những sắc thu của đất trời, hoa lá, cây cỏ, của núi xa, của nàng trăng, của làn gió thu se lạnh,... là tiếng thu xôn xao, rung động trong tâm hồn thi sĩ tuổi đôi mươi và trong lòng thiếu nữ tuổi trăng tròn. Bài thơ cho ta nhiều ngẩn ngơ say cái hương sắc mùa thu xưa, mùa thu Hà Nội hơn nửa thế kỉ trước.
Mùa thu luôn là một trong những mùa thiên nhiên tạo nhiều cảm hứng cho các nhà thơ, nhà văn sáng táng nên những tác phẩm bất hủ. Với “ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu, mùa thu không thể lọt qua ánh mắt nhạy cảm và trái tim xốn xang ấy. Vì vậy, khi phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu, chắc hẳn các bạn sẽ cảm nhận được vẻ đẹp kỳ diệu cùng những nét buồn mênh mang của “nàng thu”. Mở bài Trước khi đi vào phân tích bài thơ Đây mùa thu tới cụ thể và chi tiết, các bạn cần giới thiệu qua tác giả Xuân thơ Xuân Diệu là một trong bảy thành viên của nhóm Tự Lực Văn Đoàn. Ông cũng là một trong những đại biểu tiêu biểu cho phong trào Thơ mới với hai tập thơ nổi tiếng là Thơ thơ và Gửi hương cho gió. Mỗi tác phẩm thơ của ông đều được độc giả đón nhận rất nồng nhiệt đặc biệt là các bài thơ tình. Do đó, ông còn được mọi người gọi là “ông hoàng thơ tình”. Ngoài viết thơ, ông còn viết truyện ngắn, nhiều bút ký, phê bình văn học, và báo Diệu được xem là một trong những nhà thơ mới nhất trong những nhà thơ mới. Thơ ông luôn mang màu sắc khác biệt, với cách dùng từ ngữ độc đáo, sáng tạo và khác lạ khiến người đọc bị lôi cuốn và hấp dẫn. Những ai đã từng ngẫm qua thơ ông một lần ắt hẳn sẽ không bao giờ quên được niềm khao khát sống được hòa mình vào thiên nhiên của tác như trước Cách mạng thơ ông đậm chất tự sự cá nhân thì sau Cách magnj, thơ Xuân Diệu đã hướng vào thực tế đời sống, mang đậm chất thời sự của thời cuộc. Đặc biệt, ông ý thức được trách nhiệm của mình với đời, với dân tộc nên những tác phẩm của ông đã thêm những lời ca ca ngợi Cách mạng và hướng về cuộc sống tương lai tươi thơ Đây mùa thu tới được nhà thơ Xuân Diệu in trong tập Thơ thơ. Đây là một trong những bài ông viết trước Cách mạng nên vẫn còn mang tâm trạng buồn thương. Cùng phân tích bài thơ để hiểu hơn về mùa thu theo cách cảm nhận của Xuân Diệu nhé! Phần thân bài phân tích chi tiết Luận điểm 1 phân tích khổ thơ đầu Ngay từ tiêu đề “Đây mùa thu tới”, độc giả đã phần nào hiểu được nội dung chủ yếu của bài thơ là gì. Đó là nói về mùa thu nhưng không phải là giữa mùa thu hay cuối thu. Mà là đương lúc mùa thu mới tới, đất trời vừa mới tiễn biệt mùa hè để đón thu tới. Khi ngắm nhìn sự chuyển đổi của đất trời đó, nhà thơ Xuân Diệu phát hiện ra“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;Đây mùa thu tới – mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng”.Đập vào mắt nhà thơ đầu tiên khi mùa thu đến là hình ảnh rặng liễu rũ. Nếu người thường, thấy rặng liễu ấy sẽ mang dáng vẻ dịu dàng ê ấp, thế nhưng, ở đây nhà thơ lại thấy rặng liễu như mang tâm trạng buồn bã như đang chịu tang, như đang trong cảnh biệt li chết chóc. Từng cành lá buông xuống, được nhà thơ ví như những giọt lệ tuôn rơi. Thật là một cảnh sắc thật buồn thê lương. Dường như ẩn đàng sau hình bóng rặng liễu là hình ảnh một thiếu phụ đang khóc lóc trong cảnh đưa tang. Đọc câu thơ lên mà độc giả cảm thấy buồn đến nao lòng. Đến hai câu tiếp, nhà thơ thông báo “mùa thu tới mùa thu tới” với màu sắc mờ nhạt và lá vàng, lại càng nhán mạnh thêm sự ảm đạm trong bức tranh thu mới khổ thơ này, nhà thơ đã dùng những từ ngữ nhân hóa, khiến cho mùa thu cũng mang dáng vẻ của con người, biết khóc, biết buồn, biết dệt lá. Qua đây, chúng ta có thể cảm nhận được tâm trạng sầu thảm trước cuộc sống của nhà thơ. Luận điểm 2 phân tích khổ 2 Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới đến khổ thơ 2, chúng ta càng thấm thía hơn khung cảnh ảm đạm của mùa thu. Dưới con mắt nhạy cảm, tinh tế nhưng đầy u uất của nhà thơ, mùa thu tới mang theo sự chia lìa, khi các loài hoa thay nhau rụng xuống. Thay vì sắc xanh tươi trẻ của mùa hè thì giờ đây sắc đỏ đã chiếm chỗ và xua đuổi màu xanh đi để chiếm trọn không gian thu cho riêng mình. Không những thế, mùa thu tới mang theo những cơn gió heo may se se lạnh, khiến cho cành lá rung rinh một cách run rẩy chứ không phải rung rinh vui vẻ như khi mùa hè. Cùng với đó là những cành cây rụng hết là chỉ còn trơ xương gầy mỏng mảnh thiếu sức sống.“Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu xanh;Những luồng run rẩy rung rinh lá…Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh”.Cả khổ thơ, tác giả đã dùng màu sắc và các nét chấm phá để khắc họa lên bức tranh thu đầy xơ xác và khô héo. Dường như nó ẩn chứa dáng vẻ thất vọng, chán chường của tâm trạng con người. Con người trước Cách mạng tháng tám hay chính nhà thơ đang thấy mình thiếu sức sống, không biết bấu víu vào đâu và cảm thấy run rẩy trước dòng chảy của thời gian. Bốn câu thơ đều sử dụng phép đảo ngữ, nhằm nhấn mạnh những thay đổi của thiên nhiên khi mùa thu tới và cũng nhằm làm nổi bật nét thu đầy buồn thương. Luận điểm 3 phân tích khổ thơ 3 Nếu như những câu thơ trên, nhà thơ mới phác họa bức tranh thu qua những đổi thay của thiên nhiên, thì tới khổ thơ tiếp theo nhà thơ đã nói tới sự vần chuyển của cả vũ trụ lẫn con người. Ở đây, nhà thơ không gọi là bóng trăng, hay ánh trăng mà gọi là “nàng trăng”. Cụm từ ấy cho độc giả thấy nàng trăng như cô gái ngẩn ngơ tiếc nuối trước sự đổi thay của đất trời, của thời gian. Trăng thu không sáng vành vạch như thường mà lại thỉnh thoảng ngẩn ngơ như đang mơ tưởng hay tiếc nuối điều gì.“Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ…Non xa khởi sự nhạt sương mờ…Đã nghe rét mướt luồn trong gió…Đã vắng người sang những chuyến đò…”Không chỉ trăng ngẩn ngơ mà núi non cũng trở nên mờ nhạt. Dường như vạn vật đều trở nên hiu quạnh, mờ ảo khi bước chân mùa thu tới. Đã thế, đâu đó còn có những cơn gió lạnh đầu mùa, khiến cho cả đất trời lẫn con người bỗng trở nên buốt giá, là lạnh lẽo. Cũng chính vì thế mà những chuyến đò vốn tập nập hàng ngày giờ trở nên nên vắng vẻ, chẳng còn ai qua sông. Điều đó chứng tỏ sức sống của con người cũng trở nên khô cằn, con người đều lui về ở ẩn. Điệp từ “đã” ở đây tác giả sử dụng nhằm nhấn mạnh rằng mùa thu đã tới thực sự. Mùa thu không còn mới tới nữa mà đã bao trùm lên khắp không gian, cảnh vật và hồn người. Luận điểm 4 phân tích khổ thơ 4 Qua quá trình phân tích bài thơ Đây mùa thu tới của nhà thơ Xuân Diệu, chúng ta cảm nhận nét đẹp sầu bi của mùa thu. Thu chẳng còn vẻ đẹp lãng mạn mộng mơ mà chất chứa đầy nỗi buồn u uất. Đó cũng chính là tâm trạng của hầu hết các thi sĩ, nhà văn Việt Nam trước Cách mạng tháng 8 khi đất nước còn trong cảnh lầm than, khi mọi sự đang còn trong vòng luẩn quẩn và đời sống con người đang bị chà đạp bởi những thế lực tàn bạo nửa thực dân nửa phong kiến.“Mây vẩn từng không, chim bay đi,Khí trời u uất hận chia nhiều thiếu nữ buồn không nóiTựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì”.Chính bởi tâm trạng đang buồn rầu nên tác giả đã nhuốm màu buồn đó lên cảnh thu. Mặc dù có thể, mùa thu không đến nỗi sầu đau như thế. Nhưng vì quá uất hận, quá bi thương nên nhà thơ Xuân Diệu đã không thể giấu được lòng mình. Ông đã gửi gắm qua những câu thơ về mùa thu đầy xót xa. Đặc biệt ở khổ thơ cuối. Nhà thơ đã cho xuất hiện một loạt hình ảnh thể hiện sự chia ly, sự tử biệt. Rồi giữa khung cảnh mùa thu tang thương ấy, hình ảnh người thiếu nữ buồn không nói càng làm cho bức tranh trở nên sầu thảm. Người thiếu nữ ấy nhìn xa xăm, vô định, nghĩ ngợi mông lung về điều gì mà không biết chính xác là điều gì. Dường như đó cũng chính là tâm tư của nhà thơ khi đang khao khát điều gì đó nhưng lại không thể biết chính xác là điều gì. Cái hình ảnh “tự cửa” nhìn xa xăm không nói sao mà buồn thảm sao mà bất an và nhiều lo lắng đến thế. Dường như con người đang không biết bấu víu vào đâu, không biết đi đâu về đâu giữa cuộc đời đầy bất an đó. Luận điểm 5 nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm Toàn bộ bài thơ một là một bức tranh mùa thu buồn được vẽ bằng những bút pháp nghệ thuật độc đáo. Nhà thơ đã sử dụng những từ láy gợi cảm giác như “run rẩy”, “ngẩn ngơ”, “đìu hiu”, “mỏng manh”… Nhờ những từ đó là bức tranh thu trở nên sinh động hơn, có sức hút hơn với người đọc. Đặc biệt, những cách đảo ngữ thú vị càng giúp bài thơ bộc lộ rõ hơn sự biến chuyển của thời gian và tâm trạng não nề của tác giả. Với thể thơ tự do, nhà thơ cho thấy tâm hồn của mình thật phóng khoáng, không bị gò bó rào cản trong một khuôn mẫu nào cả. Nhờ thế mà bài thơ cũng dễ đi vào lòng người, dễ hiểu, dễ thuộc và dễ cảm hơn. Phần kết bài chi tiết phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Đã có rất nhiều nhà thơ lấy mùa thu làm chủ đề trong tác phẩm của mình. Nếu Nguyễn Khuyến là chùm thơ thu với nỗi buồn hoang vắng hiu quạnh thì ở đây, Xuân Diệu là nỗi buồn chia li đầy tang thương sầu muộn. Đó cũng chính là tâm trạng chung của hầu hết các thi sĩ, nhà văn của Việt Nam trước Cách mạng tháng thật may, sau Cách mạng, cái nhìn của họ đã trở nên tươi đẹp hơn và căng tràn sức sống tích bài thơ Đây mùa thu tới, chúng ta thêm thấm thía hơn vẻ đẹp buồn mênh mang của một mùa trong bốn mùa thiên nhiên thú vị.
Đây mùa thu tới là bài thơ thu nổi tiếng của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu. Bằng những cảm nhận tinh tế, Xuân Diệu đã mang đến những nét mới mẻ, độc đáo riêng biệt cho bức tranh mùa thu. Dựa vào phần đọc hiểu, anh chị hãy trình bày hoàn cảnh sáng tác bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu. Mục lục bài viết 1 1. Hoàn cảnh sáng tác chuẩn nhất 2 2. Hoàn cảnh sáng tác chính xác nhất 3 3. Đọc hiểu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu phổ biến nhất 4 4. Đọc hiểu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu hay nhất 5 5. Đọc hiểu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chuẩn nhất “Đây mùa thu tới” là một bài thơ trữ tình đặc sắc của “Ông hoàng thơ tình” Xuân Diệu. Bài thơ là một bức tranh mùa thu rộng lớn, đẹp đẽ nhưng đượm nỗi buồn thơ mộng do cảnh vật bị phai nhòa, nhạt nhòa theo ý muốn của thời gian. “Đây mùa thu tới” được in trong tập thơ xuất bản năm 1938, là một trong những bài thơ mang đậm hồn thơ và phong cách sáng tác của Xuân Diệu. “Đây mùa thu tới” được sáng tác khi nhà thơ nhìn hàng liễu bên hồ gần nhà, nhà thơ Xuân Diệu đã từng thốt lên điều này khi nhìn hàng liễu rủ bên hồ mềm mại như mái tóc dài của người thiếu nữ. Đồng thời, nó như những giọt nước mắt chảy dài mang vẻ đẹp mơ màng, buồn man mác nhưng cũng không kém phần lãng mạn. Đây mùa thu tới được Xuân Diệu gợi nhiều cảm hứng về thời gian. Để cảm nhận mùa thu, nhà thơ đã chọn một thời điểm đặc biệt, tức là thời khắc chuyển mùa từ hạ sang thu. Ngòi bút của Xuân Diệu nhắm vào từng bước thời gian, nắm bắt một cách tinh tế từng hình dáng, không gian và cả những nhịp điệu chuyển động tinh tế khi đất trời sang thu, qua đó bộc lộ những tâm trạng thầm kín của con người. Đoạn thơ không chỉ vẽ nên một bức tranh mùa thu tuyệt vời với màu sắc, hình khối và sự chuyển động tinh tế mà còn tái hiện tâm trạng vui tươi, phấn khởi của con người trước những đổi thay của thiên nhiên đất trời mùa thu. Đó là một bài thơ trữ tình đặc sắc mang đến cho người đọc những cảm nhận mới về mùa thu. Nhà thơ Xuân Diệu, trong lời giới thiệu tập thơ “Thơ” đã bày tỏ mong muốn được các bạn trẻ, những người trẻ thổi bùng lên tình yêu thiên nhiên, cuộc sống, để họ biết trân trọng và sống có ý nghĩa hơn. 2. Hoàn cảnh sáng tác chính xác nhất “Đây Mùa thu tới” là một trong những bài thơ trước cách mạng tiêu biểu nhất, trích từ tập “Những bài thơ thơ” xuất bản năm 1938. Trong lời giới thiệu tập thơ đầu tay, Xuân Diệu muốn gửi tặng những người thanh niên. Xuân Diệu luôn là nhà thơ của những tâm hồn trẻ. Đó là một bức tranh thơ mùa thu mang dấu ấn rất đậm nét của hồn thơ lãng mạn và phong cách nghệ thuật điêu luyện của Xuân Diệu viết về mùa thu Việt Nam. Cảm hứng thơ ca của Xuân Diệu bắt nguồn từ rặng liễu bên hồ. Nhà thơ nói rằng những hàng liễu với cành lá mềm rủ xuống như những cô gái trẻ đứng cúi đầu để mái tóc dài buông xõa trong khi những giọt nước mắt rơi vì một nỗi buồn mơ màng, buồn nhưng đẹp, duyên dáng. 3. Đọc hiểu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu phổ biến nhất Đọc bài thôi sau đây và trả lời các câu hỏi bên dưới ĐÂY MÙA THU TỚI “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá… Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh. Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ… Non xa khởi sự nhạt sương mờ… Đã nghe rét mướt luồn trong gió… Đã vắng người sang những chuyến đò… Mây vẩn từng không, chim bay đi, Khí trời u uất hận chia ly. Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi gì.” Xuân Diệu Câu 1 Anh/chị hãy nêu khái quát nội dung của bài thơ trên. Bài thơ là một hình ảnh mùa thu buồn mà đẹp. Đằng sau bức tranh mới thấy được tâm hồn nhạy cảm, tinh tế của tác giả trước sự đổi thay của đất trời. Câu 2 Bức tranh mùa thu hiện lên qua những hình ảnh nào? Những hình ảnh ấy có gì đặc biệt? Hình ảnh mùa thu được hiện lên qua các hình ảnh ‐ Rặng liễu ‐ Vườn thu trăng thu, gió thu, vòm mây, cánh chim. Không gian mùa thu. ‐ Bến đò, hình ảnh người thiếu nữ – Bức tranh mùa thu phủ một màu buồn lạnh. Với những bức tranh có đường nét và màu sắc. ‐ Nghệ thuật nhân hóa, ẩn dụ chuyển đổi cảm xúc làm cho hình ảnh có hồn hơn. Hàng liễu như một cô gái có nét dịu dàng nhưng đượm buồn; đứng một mình, tóc buồn, lệ ngàn hàng, những đường nét gầy guộc của những cành khô, nhưng khóm cây, ….. ‐ Cánh chim, ánh trăng in nền trời “u uất”. Bức tranh thu trở nên buồn và lạnh lẽo hơn,… bởi sự xuất hiện của hình ảnh người thiếu nữ. Câu 3 Anh/chị hiểu thế nào về câu thơ “Với áo mơ phai dệt lá vàng”? “Với áo mơ phai dệt lá vàng” là nghệ thuật chuyển đổi cảm giác. Có hai cách hiểu Cách 1 Áo mơ phai màu nắng nhatk lan tỏa khắp phòng, tô màu lá, làm lá xanh chuyển vàng màu nắng làm lá vàng. Cách 2 Ngược lại màu Sắc vàng của lá thu tô điểm cho cả căn phòng mùa thu, cho cả bầu trời mùa thu,… Dù thế nào đi nữa nó cũng thể hiện sự trôi qua của thời gian. Màu vàng là một màu độc đáo, đặc trưng trong mùa thu. Khi lá chuyển sang màu vàng, vạn vật như khoác lên mình một tấm áo vàng, báo hiệu mùa thu sắp đến… Câu 4 Bài thơ cho ta thấy tâm sự gì của thi nhân? Bài thơ là hình ảnh chuyển mùa từ hạ sang thu. Khi các cảnh xuất hiện từ gần đến xa, từ thấp đến cao, rồi linh hoạt thay đổi góc nhìn, cho thấy sự hiểu biết tinh tế của tác giả về sự thay đổi của các mùa. Mùa thu, nhà thơ như tiếc nuối quá khứ, bùi ngùi trước sự trôi đi của thời gian, sự đổi thay của vạn vật. 4. Đọc hiểu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu hay nhất Đọc đoạn thơ “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng. Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá… Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.” Trích “Đây mùa thu tới” – Xuân Diệu Câu 1 Xác định đề tài được đề cập đến trong đoạn thơ. Chủ đề mà đoạn thơ trên nói đến là chủ đề mùa thu. Câu 2 Bức tranh thiên nhiên trong đoạn thơ hiện lên qua những hình ảnh nào? Hình ảnh thiên nhiên của bài thơ có thể thấy qua những hình ảnh đó là Rặng liễu đìu hiu, áo mơ phai dệt lá vàng, sắc đỏ rũa màu xanh, nhánh khô gầy. Câu 3Anh/chị hiểu như thế nào về câu “Với áo mơ phai dệt lá vàng”? Em hiểu đoạn thơ trên như sau Câu thơ “Với áo mơ phai dệt lá vàng” là câu thơ thể hiện tâm hồn của mùa thu qua sắc lá, gợi cảm giác nhẹ nhàng, tươi sáng của mùa thu đẹp tuyệt vời . Câu 4 Nêu nhận xét của anh/chị về tâm trạng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ. Tâm trạng của nhân vật trữ tình có chút buồn, lo lắng và chút cô đơn trước sắc thu. 5. Đọc hiểu Đây mùa thu tới của Xuân Diệu chuẩn nhất Đọc đoạn thơ sau và trả lời câu hỏi “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới – mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá vàng.” Trích “Đây mùa thu tới” – Xuân Diệu Câu 1 Nêu nội dung chính của đoạn thơ. Nội dung chính của khổ thơ trên là miêu tả cảnh thu và sắc thu khi mùa thu đến . Câu 2 Chỉ ra các biện pháp tu từ trong bốn câu thơ trên. Biện pháp tu từ ‐ Từ láy trữ tình đìu hiu – Nhân hóa đứng chịu tang, lệ ngàn hàng ‐ Hoán dụ “tóc buồn”, “áo mơ phai” Câu 3 Trình bày ngắn gọn của anh/chị về bốn câu thơ trên. Khổ đầu bài thơ “Đây Mùa Thu Đến” của Xuân Diệu là một nỗi buồn man mác giữa thiên nhiên tươi đẹp, nhưng lại là nỗi buồn mãnh liệt khi mùa thu đến “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Mùa thu có nét trầm mặc, buồn bã, hàng liễu “buồn bã” như một hình ảnh thê lương của đất trời, lòng người. Liễu như trút bỏ mái tóc mượt mà, nhưng lại gánh cả thế gian. Những làn sương mỏng còn treo trên từng rặng liễu như những giọt lệ sầu nhân thế. Nét mặt Liễu trầm tư, nét Liễu buồn không nói, gợi nhớ một không gian hoang vắng, hiu quạnh, im lìm. Có gì đó thức dậy trong lòng người khiến tác giả háo hức, chờ đợi, hân hoan reo lên khi mùa thu đến “Đây mùa thu tới, mùa thu tới/Với áo mơ phai dệt lá vàng”. Những bước chân nhịp nhàng của mùa thu đến như thỏa niềm mong chờ của nhà thơ mong ngày trở lại. “Áo mơ phải dệt lá vàng” – một hình ảnh rất đẹp, rất thơ. Nếu như mùa xuân muôn hoa khoe sắc, mùa hè cây cối xanh tươi thì đến mùa thu vạn vật chuyển sang một màu sắc mới – màu thu – “màu thu phai”. Sắc thu và tình yêu mùa thu dệt nên vẻ đẹp vào từng sắc vàng của lá, câu thơ tinh tế, nên thơ làm nổi bật sự uyển chuyển, tinh tế, khéo léo của mùa thu, làm cho cảnh vật tràn đầy sức sống. Mùa thu đến khiến tâm hồn trở nên tĩnh lặng, nhẹ nhàng đến lạ, mùa thu không chỉ dệt nên những đường nét mới vào thiên nhiên, mà còn dệt nên tâm hồn con người thư thái, khiến lòng người bồi hồi, hoài niệm và trong dòng cảm xúc cùng thiên nhiên tuyệt vời. Qua đoạn thơ trên, ta thấy tâm hồn mùa thu và nét thu hiện lên qua cách diễn đạt cách diễn đạt tinh tế, gợi cảm. Bằng cách gieo vần khéo léo và cách dùng từ chọn lọc, tác giả đã vẽ nên một bức tranh ấn tượng góp phần làm nên một thế giới ghi dấu ấn tình yêu.
Khi phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu, các em sẽ khám phá ở thi sĩ Xuân Diệu một con người luôn chất chứa nhiều nỗi ưu tư, man mác buồn, nhịp sống chậm bên cạnh ông hoàng thơ tình luôn có khát khao sống mãnh liệt, căng tràn sức sống với thái độ sống gấp gáp. Bài viết liên quan Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới Xuân Diệu Phân tích khổ thơ sau trong bài Đây mùa thu tới "Hơn một loài hoa... xương mỏng manh." Bình giảng bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu Phân tích những cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu trước thiên nhiên thể hiện trong bài Đây mùa thu tới Dàn ý phân tích những cảm nhận tinh tế của Xuân Diệu trước thiên nhiên trong Đây mùa thu tới Đề bài Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu.Bài làm"Ao thu lạnh lẽo nước trong veoMột chiếc thuyền câu bé tẻo teo"Từ lâu, đề tài mùa thu đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận cho tất cả các thi nhân. Nếu như ở trên ta có một "Thu điếu" - Nguyễn Khuyến với cảnh thu thân thuộc, bình dị của làng quê đồng bằng Bắc Bộ thì đến với "Đây mùa thu tới", Xuân Diệu lại mang đến bức tranh thu sinh động, ấn tượng đồng thời tác giả bày tỏ cảm xúc u sầu, trầm tư khi mùa thu đến."Đây mùa thu tới" được rút từ tập "Thơ thơ" xuất bản 1938, là một đại diện tiêu biểu cho nền thơ ca trước Cách mạng. Bài thơ chính là khung cảnh đất trời với "hơi thở" man mác buồn cùng với đó là nỗi bâng khuâng của người thiếu nữ khi mùa thu đầu bài thơ người đọc đã cảm nhận được cái buồn, vắng vẻ của cảnh vật"Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng"Tác giả dẫn dắt độc giả với hình ảnh đầu tiên - "liễu". Xuân Diệu đã chọn hình ảnh này làm tín hiệu của mùa thu nhằm diễn tả một mùa thu buồn man mác nhưng cũng đầy lãng mạn. Tâm trạng mà tác giả xây dựng cho "nhân vật" này là cái "đìu hiu" - tức là sự vắng vẻ, đơn côi. Và sự cô đơn này không chỉ diễn ra trên một mà là "rặng" - với nhiều cây liễu càng làm cho nỗi buồn chồng chất, lây lan. Chính từ láy "đìu hiu" đã miêu tả không khí buồn, lẻ loi của "liễu". Nhà thơ đã dùng thủ pháp nhân hóa để nói lên hành động của "liễu" là "đứng chịu tang". Lúc này, "liễu" không còn là một thực thể vô tri vô giác nữa mà thay vào đó là hình ảnh buồn, lặng lẽ nghiêng mình trước "tang".Hình ảnh "lệ ngàn hàng" gợi nỗi đau, nỗi buồn khi tác giả sử dụng số đếm "ngàn" để chỉ về nước mắt của cây liễu. Chính điều này làm người ta tự hỏi liệu nguyên nhân nào khiến cho "liễu" khóc, ai đã ra đi để "nàng" phải "chịu tang". Hai câu thơ gợi mở và làm cho người đọc tò mò về những "diễn biến" tiếp theo. Ở khổ thơ đầu này, một biện pháp nghệ thuật nữa mà tác giả sử dụng là láy âm gần nhau. Liên tiếp là ba chữ "Buồn - buông - xuống" là các âm tiết nửa khép nên khẩu hình khi phát âm là hẹp tạo cảm giác nỗi buồn ứ đọng và khi phát âm thì âm thanh trầm. Thanh âm theo thứ tự là bằng thấp, bằng cao, trắc cao nên khi đọc câu thơ gợi cảm giác nỗi buồn đang "buông" từ từ, không vội vã . Cũng tương tự như vậy tác giả sử dụng láy âm cho ba chữ "tang - ngàn - hàng" cũng là âm tiết nửa từ bằng cao xuống bằng thấp nên các từ này gợi nỗi trĩu nặng, giọng điệu trầm xuống cho sự xót xa, thương tiếc của "liễu"."Đây mùa thu tới mùa thu tớiVới áo mơ phai dệt lá vàng."Niềm vui mừng, phấn khởi của tác giả khi mùa thu đã "chạm ngõ". Điệp cấu trúc "mùa thu tới" càng nói lên sự hồ hởi, chào đón "nàng thu" của thi sĩ. Câu cuối chính với hình ảnh nhẹ nhàng, trong sáng, mang đậm sắc thu với "phông nền" là màu vàng. Cả hai câu thơ đều có cách ngắt nhịp 4/3 diễn tả được sự chuyển động của nàng thu, đồng thời thể hiện thái độ mong chờ thu tới của thi như ở khổ thơ đầu tiên tác giả đưa chúng ta đến với những cảm xúc thuần túy của mùa thu thì ở khổ tiếp theo Xuân Diệu lại đi vào chi tiết, khắc họa rõ nét hơn bức tranh thiên nhiên"Hơn một loài hoa đã rụng cànhTrong vườn sắc đỏ rũa màu luồng run rẩy, rung rinh lá,Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh."Thoạt đọc câu đầu khổ thơ hai, độc giả sẽ cảm thấy khá lạ tai với cụm từ "hơn một". "Hơn một" tức là số nhiều, có thể là hai, ba, bốn.... nhưng thi sĩ lại không dùng một số đếm cụ thể mà lại dùng "hơn một". Chính cụm từ này đã gây ra cho người đọc nhiều hứng thú. Chắc hẳn rằng không chỉ có một loài hoa "đã rụng cành" mà là rất nhiều loài hoa đã như thế. Xuân Diệu quả là một nhà thơ tài tình khi ông liên tiếp đưa ra những từ ngữ đặc sắc và đầy chất gợi. Phải tinh tế lắm, nhạy cảm lắm thì ông mới chọn "rũa" để miêu tả cây trong vườn. Động từ này gây ra cho người đọc sự nhuốm màu, pha trộn giữa màu xanh và màu đỏ. "Sắc đỏ" đang dần xâm chiếm trên lá cây, như một tín hiệu cho mùa thu đã về. Câu thơ kế tiếp thi sĩ sử dụng liên tục hai từ láy "run rẩy", "rung rinh" như một sự lay động nhẹ của "nhánh khô gầy" khi có làn gió thoảng qua. Liên tiếp là bốn chữ "r" làm cho người đọc cảm nhận được cái lạnh, sự "run rẩy" cũng theo đó mà được cảm nhận rõ với khổ thơ thứ ba, người đọc bắt gặp hồn thơ vừa mang tính hiện thực lại có tính chất tượng trưng đầy sáng tạo. Ấn tượng ngay với độc giả là hình ảnh "nàng trăng". Cũng với ý nghĩa đó tác giả có thể diễn đạt theo cách khác như trăng non hoặc trăng đầu mùa. Nhưng không, thi nhân đã nhân hóa trăng thành hình ảnh một con gái với tuổi xuân xanh mơn mởn như chính cái sắc vàng của trăng non."Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơNon xa khởi sự nhạt sương mờ"Với phép tu từ nhân hóa, nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa tính cách của trăng y hệt như một người con gái đang suy nghĩ điều gì để rồi tự "ngẩn ngơ". Cùng với hình ảnh trăng, tác giả còn khéo léo giới thiệu về núi non quê hương. Từ "xa" cho thấy điểm nhìn của tác giả đã mở rộng ra. Thoạt đầu là từ trên cao khi chiêm ngưỡng "nàng trăng", còn giờ đây là không gian có chiều dài với núi non được bảo vệ bởi một lớp sương "nhạt". Chính từ này làm cho núi non không hiện ra một cách rõ nét cũng không bị bao phủ quá dày mà nó vừa đủ để tạo ra hình ảnh vừa thực vừa ảo."Đã nghe rét mướt luồn trong gióĐã vắng người sang những chuyến đò."Cấu trúc song hành "Đã..." diễn tả một sự việc, hành động đã xảy ra. Thu về mang theo cái rét đặc trưng cùng "hội ngộ". Lúc này tác giả đã chuyển xúc giác sang thính giác để nghe "lời thu nói". Cái rét ở đây không phải là rét đậm cũng không là rét tê tái mà là "rét mướt". Động từ độc đáo "luồn" tạo cảm giác cái rét đang len lỏi vào từng cơn gió cùng về với mùa thu. Câu thơ cuối miêu tả hiện thực những chuyến đò giờ đã vắng người sang gợi cảm giác buồn, vắng với khổ thơ cuối cùng"Mây vẩn từng không chim bay điKhí trời u uất hận chia lyÍt nhiều thiếu nữ buồn không nóiTựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì."Nếu như ở "Thu điếu" Nguyễn Khuyến đưa đến cho chúng ta một bầu trời nhẹ nhàng, trong xanh - "tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt" thì "Đây mùa thu tới" bầu trời của Xuân Diệu lại đượm buồn. Thi sĩ dùng những hình ảnh chuyển động để nói tới cái tĩnh lặng của con người. "Chim bay đi" trong sự chia ly của khí trời làm cho không gian như chia đôi, tạo cảm giác buồn đơn chiếc. Tác giả đã miêu tả từ cái xác định đến cái không xác định làm cho câu thơ có nét mới lạ. Hình ảnh "thiếu nữ buồn không nói" cùng với nghệ thuật đảo ngữ đã khắc họa nỗi sầu thảm, lẻ loi, cô đơn của cô gái trước không gian mênh mông rộng lớn. "Nhìn xa", "nghĩ ngợi" càng làm rõ hơn sự suy tư, trầm ngâm của nhân vật trước cảnh sắc mùa thu hay chính xác là bước "chuyển mình" của "nàng thu". Mượn hình ảnh "thiếu nữ", tác giả đã nói lên suy nghĩ, tâm sự của mình về bức tranh thu. Đó chính là cảm xúc buồn, suy tư khi mùa thu dần "tàn".Với "Đây mùa thu tới", nhà thơ Xuân Diệu đã cho độc giả thấy cảm quan cực kì xuất sắc trong việc quan sát, miêu tả cảnh vật khi mùa thu tới. Bài thơ không những có đầy đủ hình ảnh, cảnh sắc mà còn chất chứa tình thu. Bằng tình yêu cuộc sống, thái độ trân quý thời gian thi sĩ đã vẽ nên bức tranh thu vừa sinh động nhưng đồng thời cũng mang nét u buồn, cô cạnh Phân tích bài thơ Đây mùa thu tới Xuân Diệu các em cần tìm hiểu thêm những nội dung khác như Phân tích khổ bốn trong bài Đây mùa thu tới hay phần Phân tích bài thơ Khi con tu hú nhằm củng cố kiến thức của mình.
Giáo dụcTrắc nghiệm Thứ bảy, 10/7/2021, 1924 GMT+7 Xuân Diệu 1916-1985 tên đầy đủ là Ngô Xuân Diệu, quê làng Trảo Nha Can Lộc, Hà Tĩnh, nhưng sinh tại huyện Tuy Phước Bình Định. Ông là một trong những tên tuổi lớn nhất của phong trào Thơ mới nói riêng và thơ ca Việt Nam thế kỷ lên ở Bình Định, sau khi tốt nghiệp tú tài, Xuân Diệu đi dạy học. Ông tốt nghiệp cử nhân luật năm 1943 và làm tham tá Thương chánh ở Mỹ Tho nay là Tiền Giang một thời gian trước khi chuyển ra Hà thơ Đây mùa thu tới rút từ tập Thơ thơ xuất bản năm 1938. Đây là tập thơ đầu tiên của Xuân bài Lời đưa duyên giới thiệu tập thơ, Xuân Diệu viết "Đây là lòng tôi đương thời sôi nổi, đây là hồn tôi vừa lúc vang ngân và đây là tuổi thanh xuân của tôi, và đây là sự sống của tôi thơ đầu tay của tôi đây, bạn chớ bắt chước những người không khôn ngoan, họ không biết quý phần ngon nhất của cuộc đời Tình yêu và tuổi trẻ. Tôi gửi hồn tôi cho những người trẻ tuổi và nhất là trẻ lòng". Nhà thơ Xuân Diệu. Ảnh tư liệu. Bài thơ này từng được sử dụng trong chương trình Văn học lớp 11 giai đoạn liễu đìu hiu đứng chịu tang, Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng; Đây mùa thu tới - mùa thu tới Với áo mơ phai dệt lá một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh; Những luồng run rẩy rung rinh lá... Đôi nhánh khô gầy xương mỏng thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ... Non xa khởi sự nhạt sương mờ... Đã nghe rét mướt luồn trong gió... Đã vắng người sang những chuyến đò...Mây vẩn từng không, chim bay đi, Khí trời u uất hận chia ly. Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói Tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi nghiên cứu Văn Tâm trong sách Giảng văn Văn học Việt Nam Nhà xuất bản Giáo dục, 1998 bình giảng Bài thơ không bộc lộ trực tiếp nỗi buồn nhưng cũng không che giấu nỗi sầu khô quạnh Bầu trời cô đơn, đến nàng trăng kia cũng không còn biết ngẩn ngơ cùng ai mà phải "tự ngẩn ngơ"; mặt đất cô đơn vì người không đoàn tụ, chim chóc chia lìa. Đây mùa thu tới như một bức tranh cổ lụa sắc lạnh, thiếu nụ cười ấm áp nhưng ẩn tàng một ý vị triết luận bổ 2 "Xuân" là một bài thơ với ý tưởng kỳ lạ, tựa là mùa xuân nhưng tác giả muốn quay về mùa thu trước, chắn nẻo xuân sang. Bài thơ này của ai?a. Chế Lan Viênb. Nguyễn Vỹc. Tế Hanh
đây mùa thu tới xuân diệu